QUÁCH VINH
"Hồng quần nhẹ gót chinh yên"
Ai đã một lần đọc Quốc sử diễn ca, đều nhớ mãi những câu thơ hùng tráng và tuyệt đẹp viết về Hai Bà Trưng:
"Ngàn thu nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã…"
và: "Hồng quần nhẹ gót chinh yên..."
Lần đầu tiên, tôi được đến dự lễ hội Hai Bà tại Hát Môn, bên dòng Hát Giang, mới được hiểu thêm rằng, nơi đây không chỉ là nơi hai bà tuẫn tiết, mà trước hết, Hát Môn là nơi Hai Bà tụ nghĩa, trước lúc đăng quang lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh. Mê Linh cách Hát Môn không xa, chỉ vượt qua sông Hồng, qua mấy dặm đường là đến nơi.
Sau khi chiến thắng Tô Định, thu lại cho non sông gồm 65 thành quách, bụi chinh chiến còn lấm áo bào, Hai Bà đến tụ quân ở Hát Môn để chuẩn bị nghi vệ, voi ngựa, tàn quạt và cả việc tắm gội, trước lúc qua sông để đăng quang.
Trong ngày lễ hội Hai Bà, đã diễn ra mọi nghi vệ và dấu tích cũ.
Nơi Hai Bà tắm gội, hiện nay còn lại ngôi đền, gọi là Đền Mộc Dục. Trong lễ rước Hai Bà đi tắm gội, khi rước đi, kiệu bà Trưng Trắc đi trước, kiệu bà Trưng Nhị đi sau nhưng khi rước về, lại rước kiệu bà Trưng Nhị đi trước, kiệu bà Trưng Trắc đi sau. Các bậc kỳ lão trong làng kể lại về nghi vệ này, tương truyền rằng, vì bà Trưng Nhị trẻ hơn, mọi công việc đều xông pha, nhanh nhẹn hơn, việc tắm gội, bà Trưng Nhị cũng tắm gội xong trước, nên kiệu bà Trưng Nhị được rước đi trước. Câu chuyện này thật chân thành và gần gũi tình đời, và rất thật.
Trong lễ hội Hai Bà, nghi thức nghiêm trang. Đây là lễ hội rước vua. Nhưng vua lại là nữ. Cũng không phải là một vị Vua, mà là hai Vua. Hai vị Vua là nữ. Tất cả mọi nghi vệ, mọi lễ tiết, chính vì thế mà có dấu tích khác thường với các lễ hội ở mọi nơi khác.
Khi lễ rước Hai Bà được bắt đầu, nghi vệ trang hoàng theo chiều dài gần một cây số. Đi đầu là đoàn nữ binh tề chỉnh cầm cờ lệnh, tiếp sau là hai con ngựa trắng, yên cương chuông nhạc như nhau. Theo tài liệu còn được lưu lại, thì đây là hai con ngựa trắng cổ nhất và đẹp nhất từ thời kỳ còn gọi là trấn Sơn Tây xa xưa. Ngựa được tết bằng mây dang, ngoài bọc bằng vải sơn trắng. Hai con ngựa trắng như đang sắp phóng nước đại. Ít nhất hai con ngựa này đã cách đây chừng năm trăm năm, không hiểu kỹ thuật đan mây và bồi vải như thế nào, đến nay vẫn như nguyên mới. Trong Viễn Đông Bác cổ cũng ghi: "Hai con ngựa trắng là di vật đẹp nhất của đền Hát Môn".
Sau hai con ngựa trắng, lại là đoàn nữ binh, tay cầm binh khí và bát bửu. Sau đó là rước hai hương án lớn để thờ Hai Bà, sau hương án là hai long ngai. Long ngai nghĩa là ngai vàng có đầu rồng ở hai tay ngai để Vua ngồi. Nhưng tôi thấy có nét khác thường trong hai ngai vàng ở đây. Mọi long ngai hai đầu rồng đều hướng về phía trước. Nhưng long ngai ở đây hai đầu rồng lại quay đầu trở lại. Tiếp sau là hai chiếc kiệu để rước Hai Bà. Cũng có điều khác thường là những trai thanh, gái lịch chọn trong lứa tuổi 20 trở lại, mọi người rước kiệu đều đi thẳng, riêng người khiêng kiệu ở hàng đầu thì đi lùi, hướng mặt vào kiệu. Việc đầu rồng tay ngai quay đầu trở lại và người rước kiệu đứng ở hàng đầu đi giật lùi, đây là tục "hèm" trong lễ hội Hai Bà ở Hát Môn, mà các nhà sử học cần nghiên cứu. Các cụ cao tuổi ở trong làng giải thích rằng, người rước đầu đi giật lùi là theo tục "cha đưa, mẹ đón". Nhân dân quý trọng Hai Bà là mẹ, nên đây là nghi lễ "Đón mẹ". Còn tục đầu long ngai quay đầu lại, là một húy "hèm" nghiêm ngặt. Bình hương trong gia đình - cũng thường có lưỡng long chầu nguyệt, nhưng nếu gia đình nào vì sơ ý, để lưỡng long chầu nguyệt quay đầu vào phía trong, giống như đầu rồng quay lại ở ngai thờ Hai Bà, thì đó là cấm kỵ. Và "đầu rồng quay lại", có thể coi như một tượng trưng Hai Bà nhìn lại non sông đất nước một lần nữa, trước khi nhảy xuống dòng Hát Giang tuẫn tiết.
Một đặc điểm của dấu hiệu nữ giới khi rước kiệu Hai Bà là sau mỗi kiệu, có người bưng hộp đôi hài, người bưng hộp gương lược, người rước hộp trầu cau. Riêng đôi hài được thêu công phu, "tiền rồng, hậu phượng". Rồng là tượng trưng cho Vua. Phượng là tượng trưng cho nữ. Đám rước có trầu, có cau, có rồng, có phượng, có gương, có lược, mang đầy đủ ý nghĩa một vị vua là nữ. Là nữ, nhưng lại là vua, một sắc thái tuyệt đẹp.
Hai Bà, trước khi tuẫn tiết, trải qua trận huyết chiến quá to, nên ở đây, các kiệu rước, các long ngai và hương án thờ đều dùng màu đen, kiêng kỵ màu đỏ.
Trước khi Hai Bà tuẫn tiết, Hai Bà có trở lại Hát Môn, và dừng lại, mỗi Bà ăn một đĩa bánh trôi ở một quán hàng ven đê. Lúc ấy là buổi sáng ngày sáu tháng ba âm lịch. Phong tục ấy, đến nay còn được tôn trọng và là sự thiêng liêng kính cẩn đối với Hai Bà cho đến nay. Đã là người làng Hát Môn, dẫu đi Nam, về Bắc, hay là Việt kiều ở nước ngoài, từ Tết nguyên đán đến sáng ngày sáu tháng ba âm lịch, mọi người đều kiêng không ăn bánh trôi. Cho đến sáng ngày sáu tháng ba, sau khi làm đại lễ dâng hai dĩa bánh trôi cúng Hai Bà, các gia đình mới cúng bánh trôi lên tổ tiên. Và đến chiều hôm đó các gia đình mới làm đại tiệc, mời khách đến ăn bánh trôi tại nhà mình. Nơi quán hàng Hai Bà ăn bánh trôi, hiện còn dấu tích, nhân dân địa phương xây một ngôi đền nhỏ, gọi là đền Các Cô bán hàng, ngay gần lối vào đền Hai Bà.
Tôi đã vinh dự được chứng kiến ngày đại lễ dâng hương tại đền Hai Bà. Trong các nơi thờ các vị anh hùng khác, khi tiến hành đại lễ, chỉ có một người đứng làm chủ lễ. Nhưng đền Hát Môn là nơi thờ Hai Bà, mọi nghi vệ đều có hai. Trong đền thờ, có hai hương án, hai long ngai, hai kiệu rước, hai lư hương, và khi tiến hành đại lễ, có hai chủ lễ, hai người đọc "chúc văn" nói lên công đức của Hai Bà, và khi đọc chúc văn, có hai đội nữ binh cầm binh khí đứng tề chỉnh ở hai bên, hai người cầm hai chiếc quạt lụa dài chừng một mét, giống như hình chiếc quạt giấy hàng ngày vẫn dùng hiện nay, nhưng có khác là trên nền quạt có thêu rồng, hai người cầm quạt che cho hai Chúc văn, thể hiện sự tôn kính đối với công ơn oanh liệt của Hai Bà.
Khi đến dự ngày lễ hội của Hai Bà, dẫu ta đã được biết thêm rất nhiều dấu tích từ xa xưa truyền lại, nhưng giây phút thiêng liêng nhất vẫn là được chiêm ngưỡng đền Hát Môn, nơi thờ cúng Hai Bà.
Từ hai phía đầu đê để xuống chiêm ngưỡng đền là hai tấm bia có chữ "Hạ mã", nơi xưa kia, khi các triều thần thuộc các thời đại qua đây, đều phải xuống ngựa và đi bộ. Hai tấm bia xa xưa, tuy rêu phong nhưng chữ còn rất rõ, Đền Hát Môn ở bên này đê, dưới những tán cây cổ thụ um tùm. Trong đền, phía sâu nhất là Cung Cấm, phía ngoài là nhà Đại lễ. Ở ngoài là sân, tuy nhỏ, nhưng nhân dân địa phương tôn kính, gọi là "Sân rồng". Tương truyền rằng, ngôi đền này làm từ thời Lý, qua nhiều lần trùng tu xây dựng, đến nay, đền vẫn uy nghiêm. Trên bàn thờ ở chính gian giữa có 4 chữ lớn "Lạc Hùng Chính Thống". Chỉ bốn chữ ấy đã nói lên công huân rực sáng của Hai Bà.
Cao Bá Quát, một danh sĩ, một thánh thơ, một bậc tài danh và khí phách hào hùng, đã tiến cúng cho đền Hát Môn hai câu đối, hiện khắc ngay trên cột trụ lối vào đền:
"Túng bất kim đao, thiên khải vận
Ưng vô đồng trụ, địa phân cương".
Nghĩa là: "Nếu không có kim đao do Hai Bà (ví như trời) mở vận, thì đâu có được đất nước này một cõi bờ riêng".
Đền Hát Môn cách Hà Nội chỉ trên 20km. Đến thăm đền Hát Môn là đến thăm một vùng mang nhiều dấu tích anh hùng của hai vị nữ lưu hào kiệt.
"Hồng quần nhẹ gót chinh yên..."
Gót chinh yên của Hai Bà, ngàn xưa đẹp, và ngàn sau còn đẹp mãi.
Q.V.
(TCSH61/03-1994)