LÃ ĐĂNG BẬT
Bất kỳ quốc gia lớn nhỏ nào trên trái đất đều phải có ít nhất một cố đô. Đó là thủ đô từ ngày xưa của mỗi nước. Ở Việt Nam đã có nhiều cố đô. Cố đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên trong nền văn minh Đại Việt của dân tộc, nền phong kiến tập quyền ở nước ta.
Nếu du khách muốn thăm cố đô Hoa Lư, xuất phát từ thị xã Ninh Bình, theo đường số một (đường đi Hà Nội) thấy cột cây số 6 ở cầu Huyện (xã Ninh Mỹ, huyện Hoa Lư) rẽ tay trái vào con đường đá rộng, đi khoảng 5km về phía Tây là đến. Đó là một diện tích trải ra rộng khoảng 300 hec-ta bao trùm lên xã Trường Yên, mà trước đây gọi là Trường Yên Thượng và Trường Yên Hạ, trung tâm của cố đô Hoa Lư thuộc khu vực hai ngôi đền Đinh và Lê hiện nay, thờ Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành, ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Trước đây, tương đương với thời Nhà Tần ở Trung Quốc (khoảng 221 - 206 trước Công nguyên), đất này có tên là Tượng Quận. Tương đương với thời Ngô - Tấn (265 - 279) đất này có tên là Châu Giao, tương đương với thời Lương (502 - 557) có tên là Châu Đại Hoàng, đến thời gian đầu của đời Tống (960 - 1010) mới có tên là Hoa Lư, mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ (1010 - 1028) dời kinh đô ra Thăng Long (Hà Nội) đổi Hoa Lư thành phủ Trường Yên.
Nhà sử học Lê Văn Hưu (1230 -?), trong cuốn "Đại Việt Sử Ký", khi bàn về Đinh Tiên Hoàng có viết: "Tiên Hoàng với tài năng sáng suốt hơn người, dũng lược bậc nhất thiên hạ, đảm đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ khắp nơi, một lần cử sự, mười hai sứ quân đều thần phục hết. Thế rồi mở nước, dựng đô, đổi niên hiệu, xưng Hoàng đế, đặt trăm quan..."(1)
Như thế cố đô Hoa Lư gắn liền với tên tuổi người có công thống nhất quốc gia hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của dân tộc là Đinh Bộ Lĩnh quê ở động Hoa Lư (Nay là xã Gia Phương, huyện Gia Viễn).
Đinh Bộ Lĩnh là con ông Đinh Công Trứ. Đinh Công Trứ là một nha trưởng của Dương Đình Nghệ (Thời Ngô-Vương 939 - 944), làm thứ sử Hoan Châu (nay thuộc Nghệ-Tĩnh) kiêm ngự phiêu Đô đốc cùng với Ngô Quyền cai quản Châu Ái (nay là Thanh Hóa). Khi Đinh Công Trứ chết. Đinh Bộ Lĩnh cùng mẹ là Đàm Thị, người vợ hai của Đinh Công Trứ bỏ Hoan Châu đem tôi tớ về ở động Hoa Lư(2).
Ở động Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh cũng như bao trẻ nhỏ khác trong làng quê, đi chăn trâu cắt cỏ để kiếm sống trên một địa bàn khá rộng, bao trùm gần hết huyện Gia Viễn và một phần huyện Hoàng Long ngày nay. Khi đi chăn trâu, Đinh Bộ Lĩnh được tôn làm người đứng đầu và cùng lũ trẻ lấy bông lau làm cờ tập trận. Lớn lên ông là người mưu lược cao, có chí lớn, nên đã xây dựng một lực lượng vũ trang được nhân dân trong vùng theo phục rất đông.
Năm 944 Ngô Quyền mất, triều đình lúc đó, có nhiều cuộc biến loạn và xung đột, các thế lực phong kiến nổi dậy, mỗi người hùng cứ một phương và tranh giành nhau quyết liệt. Đó là loạn 12 sứ quân, mỗi sứ quân đều chiếm cứ một vùng đất rộng khoảng vài huyện như ngày nay, có xây thành, đắp lũy và thôn tính lẫn nhau. Lúc này, Đinh Bộ Lĩnh cũng xây dựng lực lượng quân sự ở động Hoa Lư thuộc khu thung lau và một thung lũng rộng khoảng 16 mẫu nằm trong dãy núi đá vôi (xã Gia Hưng, Gia Viễn). Đó là căn cứ quân sự ban đầu của Đinh Bộ Lĩnh. Để có lực lượng mạnh hơn, thấy Trần Lãm là 1 trong 12 sứ quân ở Bố Hải Khẩu (Vũ Tiên, Thái Bình) có tài thao lược, dũng cảm, đức độ mà không có con, Đinh Bộ Lĩnh cùng với con trai Đinh Liễn đến liên kết. Trần Lãm có con mắt tinh đời nhận ngay ra Đinh Bộ Lĩnh là người có tài năng, hy vọng sẽ làm rạng rỡ cho dân tộc liền nhận ông làm con nuôi và giao quyền binh cho ông cầm quân. Sau khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh trở thành người cầm đầu một lực lượng vũ trang lớn mạnh. Nhưng ông thấy vùng Bố Hải Khẩu là vùng đồng bằng, địa hình bất lợi, quyết định bỏ vùng này, dời quân về Hoa Lư - Quê hương của ông có thế núi trùng điệp hiểm trở, có hang động, sông nước khúc khuất sẽ có địa thế lợi hơn. Hơn nữa đây là nơi ông đã lớn lên, có tình sâu nghĩa nặng với dân làng như mẹ cho ta nguồn sữa nóng sẽ giúp ông cả cuộc đời. Đây lại cũng là nơi rất thuận lợi về giao thông thủy, bộ, cơ động được về quân sự. Hoa Lư còn là vùng đất màu mỡ, quân sĩ có thể vừa chiến đấu vừa sản xuất để tạo nguồn lương thực tự lúc.
Về Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh có đủ ba điều kiện: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ông đã lần lượt đánh bại các sứ quân khác. Đến cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên loạn 12 sứ quân, thu gom non sông 12 xứ về một mối, đất nước trở lại thống nhất, trong khi đó ở phương Bắc, đại loạn 5 đời, 10 nước (ngũ đại thập quốc) kéo dài từ năm 907 đến 960 mới chấm dứt.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Nếu vua Hùng - Thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất tất cả các bộ lạc Lạc Việt dựng nên nước Văn Lang, mở đầu thời kỳ Việt Nam bắt đầu dựng nước, thì Đinh Tiên Hoàng là người có công củng cố độc lập và chủ quyền dân tộc, xây dựng quốc gia phong kiến thống nhất đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Và cũng lần đầu tiên ở nước ta đã tôn xưng danh hiệu "Hoàng". Đây phải chăng có ý so sánh vua sáng nghiệp triều đại thống nhất ở Phương Nam với người khởi đầu cho một triều đại thống nhất nổi tiếng trong lịch sử Phương Bắc là Tần Thủy Hoàng, đều là "Hoàng" cả. Ở nước ta, trước Đinh Tiên Hoàng đã có hai người xưng đế: Lý Nam Đế (544 - 548), Mai Hắc Đế (722), nhưng cả hai sự nghiệp chưa đi tới thắng lợi cuối cùng. Còn Đinh Tiên Hoàng xưng là "Đại Thắng Minh Hoàng đế" chính là người toàn thắng vẻ vang nhất. Điều đó cũng có ý nghĩa khẳng định nước ta có nền độc lập tự chủ và tự đặt tư thế mình ngang với các Hoàng đế phương Bắc. Vì thế trong "Lịch triều hiến chương loại chí", Phan Huy Chú viết: "Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội ở nhà Minh Đường (lệ nhà Chu). Rồi Triệu Đà kiêm tính nhà Hán phong Đà làm Nam Việt vương chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chưa từng được nêu là một nước... Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi bấy giờ sách phong của Trung Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước".
Hai năm sau (970), Đinh Tiên Hoàng bỏ niên hiệu của các Hoàng đế phong kiến phương Bắc tự đặt niên hiệu riêng là "Thái Bình". Cũng lại là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, một thủ lĩnh địa phương lên ngôi vua đã vứt bỏ niên hiệu của "Thiên Triều". Đó là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của dân tộc ta thời ấy.
Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư là vùng núi non kỳ tú nhưng hiểm trở để làm thủ đô - "Kinh đô đá". Tại đây, ông cho xây dựng cung điện, đặt triều nghi, đắp thành, đào hào, dựa vào thế núi xây dựng một công trình phòng ngự kiên cố như một pháo đài hiểm, biệt lập với bên ngoài.
Kinh đô Hoa Lư nằm gọn trong địa phận xã Trường Yên ngày nay, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung thiên tạo làm nên một cảnh quan hùng vĩ. Khoảng trống giữa các sườn núi được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp khá cao từ 8 đến 10 mét, có đoạn phía trong xây gạch phía ngoài đắp đất, có đoạn đắp đá lẫn đất và có đoạn đắp bằng đất không. Đó là những đoạn tường thành nhân tạo.
"Đại Nam nhất thống chí" (thế kỷ XIX) có viết: "Đô cũ nhà Đinh, nhà Lê ở xã Trường Yên thượng và Trường Yên hạ,... có nội thành và ngoại thành". Như thế kinh đô Hoa Lư có hai vòng thành: Thành nội và thành ngoại. Ngoài hai khu thành đó còn có khu vực Thành nam là địa danh chỉ cho cả khu vực kinh thành ở phía nam, từ hang luồn trở vào trong, nằm đối diện và nối liền với khu thành ngoại. Ở đây xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ phía nam kinh thành bảo vệ mặt sau, từ đây bằng đường thủy có thể nhanh chóng rút ra ngoài.
Thành ngoại rộng khoảng 140 hec-ta thuộc địa phận thôn Yên thượng và thôn Yên thành xã Trường Yên. Đây là cung điện chính, mà khu vực đền Đinh, đền Lê là trung điểm của thành ngoài, là nơi Đinh Tiên Hoàng cắm cờ nước. Ở thôn Yên thành có nhiều chùa và điện hiện nay vẫn còn, là một phần kiến trúc trong khu vực cung điện chính. Đó là chùa Nhất Trụ được xây dựng từ thời Lê Hoàn. Trước cửa chùa có cột kinh bằng đá hình 8 cạnh, trên đỉnh cột là bông sen, có khắc bài kinh Lăng Nghiêm. Cách chùa Nhất Trụ một đoạn là đền Phất Kim thờ công chúa Phất Kim, con gái của Đinh Tiên Hoàng, gần đó có chùa Địa Tương, phía Bắc thôn có chùa Bà Ngô thờ Bà Ngô. Hai ngôi chùa này có kiến trúc rất đẹp, đều xây dựng từ thời Đinh.
Thành nội thuộc thôn Chi Phong xã Trường Yên, có tên là Thư Nhi Xã, nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc. Vị trí của thành nội không quan trọng như thành ngoại. Gọi là thành nội, thành ngoại là gọi từ phía trong ra phía ngoài, chứ không phải là chỉ các vòng thành phía trong hay phía ngoài, cũng không mang ý nghĩa là khu thành phụ hay khu thành chính.
Thành nội và thành ngoại là hai khu vực cách biệt nhau nhưng ở sát cạnh nhau và có thể qua lại được dễ dàng nhờ một ngách núi ăn thông gọi là Quèn Vông. Ngăn đôi hai khu có cổng lớn xây bằng đá, có hào sâu, bắc ngang qua hào sâu là những chiếc cầu cũng bằng đá. Đó là các Cầu Đông, Cầu Dền, Cầu Muống,... Bên ngoài khu thành có nhiều trạm gác bảo vệ. Trong cấm thành tuyệt nhiên không có dân ở. Kinh thành nằm giữa những quả núi lớn bao bọc xung quanh, mang nặng tính chất quân sự. Đây là một vị trí kín đáo thuận lợi cho việc phòng thủ, tiến công, mặt khác lại xa biên thùy ải Bắc, giặc phương Bắc khó khăn trong việc tìm hiểu và mở những đợt tấn công chớp nhoáng.
Phía Đông thành có núi Cột Cờ, xưa là nơi vua Đinh cắm cờ. Núi cao hơn 200 thước như một cột cờ thiên nhiên khổng lồ, vĩ đại. Phía đông nam thành có Ghềnh Tháp là một mỏm núi nhấp nhô ra sát ngòi sào khê. Mỏm núi này tương truyền là nơi vua Đinh, vua Lê thường đứng để chứng kiến duyệt thủy quân. Ngòi sào khê chảy qua hang Luồn (xuyên thủy Động) là nơi các đơn vị thủy quân của vua Đinh luyện tập thường xuyên. Tại đây cũng có động Am Tiên ở lưng chừng núi - một ngục đá, vua Đinh cho nuôi nhiều hổ báo, hễ kẻ nào phạm tội nặng cho bỏ vào đó để mãnh thú ăn thịt, đồng thời cũng là một "lò luyện võ" giành cho những quân sĩ có võ nghệ và sức khỏe cao cường đến tập luyện đọ sức cùng thú dữ. Dưới chân núi gần đó có cái vực sâu như một ao lớn, nước trong xanh rợn người, gọi là Ao Giải. Vua Đinh cho nuôi nhiều con giải, những kẻ phạm tội lớn bị trói ném xuống ao để giải ăn thịt. Ngoài ra còn có Hang Muối là kho tích muối, Hang Tiền là kho trữ tiền. Rồi Hang Quèn có một thung lũng khá rộng là nơi quân sĩ của vua Đinh thường đến tập luyện, gọi là "đấu đong quân". Tất cả núi sông và khu vực thành cổ đó nhấp nhô do thiên tạo và nhân tạo đã hình thành một quần thể kiến trúc trang nghiêm, đồ sộ và khoáng đạt mà không một kinh đô cổ nào có được.
Du khách đến đây bây giờ không còn nhìn thấy những cung điện nguy nga, những tường thành vững chắc, nhưng sẽ chứng kiến đầy đủ những ngọn núi, hang động, dòng sông và ao ngòi vẫn còn với những tên gọi đã có từ xa xưa. Đó cũng là một phần còn lại mà không bao giờ mất đi được của kinh đô Hoa Lư.
Từ kinh đô Hoa Lư đi ra, bằng đường bộ còn có con đường Thượng đạo về phía Tây có thể đi vào Thanh Hóa và ngược lên phía Bắc được dễ dàng.
Kinh đô Hoa Lư còn tỏa ra một không gian rộng hơn nữa. Thôn La Mai xã Ninh Giang, Hoa Lư, cách núi Dũng Đương sơn không xa, xưa là nơi vua Đinh để kho mắm, kho muối. Để bảo vệ kinh đô về mặt đường thủy, vua Đinh còn cho xây đồn lũy trên núi Non Nước (Núi Dục Thúy) coi như một tiền đồn kiểm soát con đường bộ từ Tam Điệp, con đường biển theo cửa Đại Ác, đến đời Lý đổi là Đại An, tức là cửa sông Đáy. Vua Đinh đặt tên cho núi Non Nước là "ngự trấn phòng sơn" để kỷ niệm một trận thủy chiến của quân sĩ đã tiêu diệt một cánh quân mạnh nhất của sứ quân Phạm Bạch Hổ. Điều đó chứng tỏ Đinh Tiên Hoàng rất quan tâm chú ý xây dựng kinh đô và có các phòng tuyến bảo vệ vững chắc để xây dựng đất nước thống nhất.
Nhưng đến năm 979, một tai họa lớn đã đến với nhà Đinh: Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại, thế là trong triều có nhiều vụ xung đột xảy ra. Triều đình phải đưa một người con trai thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn mới 6 tuổi lên làm vua. Khi đó, trong nước nội bộ triều đình lục đục, ngoài nước nhà Tống (Trung Quốc) thừa dịp tiến hành mưu đồ thôn tính nước Đại Cồ Việt, đất nước đang đứng trước hiểm họa bị giặc ngoại xâm đe dọa nghiêm trọng. Triều đình có vua nhưng vua Đinh Toàn còn ít tuổi, chưa đủ khả năng và uy tín để tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga và một số quan lại cùng đông đảo quân sĩ liền suy tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn là một người có uy tín trong triều lúc bấy giờ đang giữ chức Thập đạo tướng quân là chức Tổng chỉ huy quân đội.
Lễ trao ngôi vua đó đã diễn ra cũng tại kinh đô Hoa Lư.
Lê Hoàn lên ngôi vua, lập nên một triều đại mới, triều Tiền Lê, vẫn lấy Hoa Lư làm kinh đô. Một nhiệm vụ lịch sử trọng đại đặt ra trước dân tộc và triều đình lúc bấy giờ là phải gấp rút tổ chức cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống.
Đầu năm 981, quân Tống theo hai con đường thủy, bộ ào ạt đến xâm lược nước ta tiến vào vây hãm kinh đô Hoa Lư. Lê Hoàn trực tiếp tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống đã giành được thắng lợi rực rỡ. Lịch sử dân tộc lại ghi thêm một chiến công mới làm vẻ vang cho non sông đất nước và kinh đô Hoa Lư.
Sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàn tìm cách lập lại quan hệ bang giao với nhà Tống. Các sứ thần của nhà Tống đến kinh đô Hoa Lư, chứng kiến cảnh núi sông hùng vĩ của thiên nhiên, thấy con người Đại Cồ Việt thông minh, có sức mạnh lớn lao đã phải thán phục và kính nể nước Đại Cồ Việt. Những cuộc bang giao của các sứ thần nhà Tống với thời Đinh-Lê ở kinh đô khi đó, ghi nhận đầu tiên trên một mảnh đất của đất nước đã có một quan hệ ngoại giao quốc tế ban đầu, một chính sách đối ngoại kiên quyết nhưng mềm dẻo, khôn khéo trong cách đối xử để giữ gìn hòa hình cho dân tộc.
Đất nước lại bình yên, Lê Hoàn cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy, góp phần làm cho kinh đô Hoa Lư ngày càng hoàn chỉnh, trong đó có những cung điện có cột dát vàng, dát bạc, mái lợp bằng ngói bạc. Trong cuốn "Đại Việt sử ký toàn thư" của Ngô Sĩ Liên, có ghi: "Giáp Thân năm thứ 5 (984): Dựng nhiều cung điện: Làm điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột điện dát vàng bạc, làm nơi coi chầu; bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Từ Hoa; bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc; rồi làm lầu Đại Vân, rồi lại dựng điện Trường Xuân làm Long Lộc lợp bằng ngói bạc"(3). Đây là 8 công trình được xây dựng từ năm 984. Một công trình thứ 9 thấy xuất hiện nữa là điện Càn Nguyên, nơi mà năm 992, vua Lê đã đến xem đèn nhân dịp đầu năm. Núi Đại Vân nằm ở ngay phía đằng sau khu đền Đinh, đền Lê hiện nay, còn gọi là núi Hỏa Vân (Việt sử lược), núi Long Triều (Đại Nam nhất thống chí), dân địa phương gọi là núi Phi Vân. Điều đó chứng tỏ kinh đô Hoa Lư có quy mô bề thế, đẹp đẽ, uy nghi, trang hoàng lộng lẫy vàng son(4).
Cũng chính vì vậy. Tống Cảo - sứ thần Trung Quốc đời Tống, khi sang nước ta ở kinh đô Hoa Lư đã phải hạ bút viết:
"Hoa Lư thị Hán Tràng An!"
Có nghĩa là "Kinh đô Hoa Lư có thể sánh ngang với kinh đô Tràng An đời Hán ở Phương Bắc".
Kinh đô Hoa Lư đã dựa vào ưu thế địa hình núi sông hiểm trở để xây dựng. Đó là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao của cả nước lúc bấy giờ, đồng thời còn là một đồn lũy vô cùng kiên cố về mặt quân sự.
Suốt 41 năm tồn tại (968 - 1009) kinh đô Hoa Lư là đại bản doanh của hai vị vua kiêm tổng tư lệnh quân đội.
Năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, Kinh đô Hoa Lư trở thành cố đô Hoa Lư. Đó là một dấu ấn tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử thống nhất độc lập, bước đầu xây dựng đất nước Đại Cồ Việt của dân tộc - một thời đại hiển hách.
Cố đô Hoa Lư sáng mãi với tên tuổi Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn. Hai vị anh hùng đó đã tô điểm cho cố đô Hoa Lư rực sáng muôn đời, đi vào lịch sử Việt Nam như một bản anh hùng ca bất hủ.
L.Đ.B
(TCSH61/03-1994)
-----------------
(1) "Văn thơ Lý-Trần" tập 2 - quyển thượng - NXB khoa học xã hội - Hà Nội - 1988 - trang 361.
(2) Động không có nghĩa là hang động, mà là tên để gọi một khu vực cư trú của đồng bào miền núi.
(3) "Đại Việt sử ký toàn thư" tập I - NXB Khoa học xã hội - Hà Nội - 1972.
(4) Năm 1978, Ty Văn hóa Thông tin Hà Nam Ninh khảo sát tại khu vực Trường Yên, Hoa Lư, phát hiện thấy chân móng bằng đá xếp vuông vắn như ô bàn cờ ở độ sâu 0m6, một nền nhà lát bằng gạch "Giang Tây quân" đã bị vỡ, một lớp tro than dày 20 - 30cm ở độ sâu 0.90m, một mảng nền gạch hoa sen kích thước 34 x 34 x 7cm, cùng với một số mảnh ngói ống ở độ sâu 0.95m, một số gỗ lát mục dày 10 - 20cm và những mảnh gạch ngói ken dày 40cm có dấu vết tường gạch, lò nung gốm và dấu vết kiến trúc bị đổ nát rộng trăm mét vuông..