Tạp chí Sông Hương - Số 169 (tháng 3)
Hồi ký Điện ảnh
16:53 | 05/05/2009
LTS: Kỷ niệm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam (15/3/1953) khai sinh cho nền điện ảnh dân tộc, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu với bạn đọc ba chương (chương III, IV, X) trong cuốn Hồi ký Điện ảnh của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Qua những dòng hồi ký này bạn đọc sẽ biết được trong hoàn cảnh nào Đặng Nhật Minh đã trở thành đạo diễn điện ảnh, những bước đi đầu tiên của anh trong lĩnh vực này... và như anh đã viết trong lời nói đầu của cuốn hồi ký: ..."nếu gạt bỏ đi những cái chủ quan của người viết (mà chắc là không tránh khỏi) vẫn còn lại cái gì đó hữu ích đối với những ai muốn tìm hiểu đôi chút về một thời làm phim ở nước ta".                                                                SH
Hồi ký Điện ảnh


ĐẶNG NHẬT MINH

Hồi ký Điện ảnh

                              
(Trích)

BƯỚC NGOẶT BẤT NGỜ

Từ một phiên dịch vô danh chẳng bao giờ được lọt vào mắt xanh của tổ chức, bỗng nhiên một hôm tôi được cơ quan thông báo lên gặp Vụ tổ chức cán bộ của Bộ Văn hóa. Tại đó một cán bộ tổ chức báo cho tôi biết, tôi được trên cử sang Liên Xô học đạo diễn điện ảnh, yêu cầu tôi về chuẩn bị gấp để một tuần sau lên đường ngay. Những người được cử đi học điện ảnh năm đó đã có đủ danh sách, nhưng tôi thuộc diện đặc biệt, được bổ sung vào phút chót (hồi đó ai được đi học nước ngoài là do tổ chức quyết định, không phải thi cử hay sát hạch gì cả). Đó là vào những ngày cuối tháng 8 năm 1967, những ngày không quân Mỹ leo thang ra miền Bắc ác liệt nhất. Đường sắt lên biên giới đã bị cắt đứt. Cầu Long Biên đã bị đánh sập. Tôi trở về nhà lòng tự nhủ: đi học để trở thành đạo diễn điện ảnh, điều mà tôi mơ ước bấy lâu, thì nay đã ở trong tầm tay của mình rồi đây. Nhưng tôi cũng hiểu ngay rằng tôi có được sự ưu ái đó là sau cái chết của cha tôi ở chiến trường Trị Thiên vào đầu năm 1967. Tôi được sự quan tâm tổ chức là vì con liệt sĩ!. Nhưng tôi còn lòng dạ nào để nhận cái may mắn ưu tiên ấy? Con trai tôi lúc đó hãy còn nhỏ. Lẽ nào tôi để vợ con ở lại một mình với những cuộc báo động liên miên trong thành phố, với những cuộc sơ tán lặn lội về nông thôn. Ai sẽ tiếp tế gạo dầu mắm muối cho vợ tôi? Cái chết của cha tôi như một nỗi đau còn đấy làm sao tôi quên được cho dù được sống ở một nơi “thiên đường của trái đất” và được học một nghề mà mình mơ ước? Hai hôm sau tôi trở lại gặp ông cán bộ tổ chức Bộ Văn hóa cám ơn về sự quan tâm của trên và nói rằng tôi không thể đi Liên Xô trong lúc này được. Tôi trở về trường tiếp tục làm việc trong phòng giáo vụ, dịch tài liệu phục vụ cho học sinh. Chừng một tháng sau tôi lại được gọi lên Bộ để gặp đồng chí Hà Huy Giáp - Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng đoàn Bộ Văn hóa. Người đại diện lãnh đạo Bộ cho tôi biết nếu tôi từ chối không đi Liên Xô học thì Bộ sẽ đáp ứng bất kỳ nguyện vọng nào của tôi. Tôi hiểu lúc này Bộ muốn làm một việc gì đó để tỏ rõ sự quan tâm của trên đối với tôi. Tôi cám ơn bác Giáp và chỉ xin đề đạt một nguyện vọng: cho tôi được thôi cái nghề phiên dịch sau hơn mười năm làm nghề này, và vì đã gắn bó với điện ảnh trong nhiều năm nên tôi muốn làm một đạo diễn phim tài liệu. Tôi đã thử sức mình trong phim Theo chân người địa chất và nhận thấy có thể đảm đương được công việc này. Không chần chừ, bác Giáp cho biết ngày mai tôi đến nhận công tác tại Xưởng phim Tài liệu - Thời sự mà không cần bất cứ giấy tờ giới thiệu gì. Bác sẽ chỉ thị ngay cho lãnh đạo Xưởng nhận tôi. Sáng hôm sau tôi đến trình diện ông Giám đốc Xưởng Thời sự-Tài liệu là ông Lê Huân. Phải chờ đợi rất lâu ông mới cho vào phòng để tiếp. Ông cho biết đã nhận được chỉ thị của Bộ, nhưng yêu cầu tôi một tuần sau hãy trở lại vì còn phải đem ra bàn trong Đảng ủy và Ban Giám đốc cơ quan. Một tuần sau tôi trở lại. Giám đốc Lê Huân tiếp tôi rồi cho biết:

- Sau khi trao đổi kỹ trong lãnh đạo Xưởng, chấp hành chỉ thị của Bộ, chúng tôi phân anh từ nay sẽ là đạo diễn hậu kỳ của các phim thời sự.
Tôi hỏi kỹ thêm về các chức danh lạ lẫm nầy. Ông Giám đốc giải thích:
- Có nghĩa là khi các đội quay phim thời sự gởi phim về thì anh ngồi sắp xếp lại các hình ảnh cho có đầu, có đuôi, ghép nhạc và thuyết minh vào để thành các bộ phim thời sự.

Tôi nói tôi đã làm một bộ phim tài liệu dài 5 cuốn và nguyện vọng của tôi là trở thành một đạo diễn phim tài liệu. Cái công việc mà ông vừa nói kia là công việc của một người dựng phim. Ông Giám đốc ôn tồn giảng giải:
- Thực ra vì chấp hành chủ trương của trên phải ưu tiên đối với anh mà chúng tôi đành nhận. Anh không có bằng cấp đạo diễn, không học ở một trường nào, lại chưa phải đảng viên. Người đạo diễn phải là một đảng viên thì mới đảm bảo được tính tư tưởng của một tác phẩm điện ảnh, đối với phim tài liệu lại càng quan trọng hơn, vì đó là tờ báo chính luận bằng hình ảnh của Đảng.

Tôi thất vọng trở về. Thất vọng vì nghĩ rằng với một nguyện vọng mà tôi cho là rất khiêm tốn, không yêu sách lớn lao gì, chắc chắn sẽ không bị từ chối. Đây là lần đầu tiên tôi vấp phải guồng máy tổ chức của một cơ quan trong đó vai trò người bí thư Đảng ủy là quyết định. Người phản đối việc nhận tôi về Xưởng mạnh mẽ nhất là Bí thư Đảng uỷ kiêm trưởng phòng Tổ chức có tên là Khuê. Tôi biết rằng nếu có về Xưởng làm việc, tôi sẽ còn phải chạm trán với bộ máy tổ chức lỉnh kỉnh đó, nên đã không bao giờ quay trở lại nữa.

Tôi trở về trường Điện ảnh tiếp tục làm công tác phiên dịch. Lúc này trường sơ tán về Đan Phượng-Hà Tây, các lớp học tan tác, tôi không phải suốt ngày ngồi cắm đầu dịch như trước nữa. Trong những ngày bom đạn luôn rình rập trên đầu và cái chết luôn kề bên, tôi không còn nghĩ gì tới cái ước mơ làm đạo diễn của mình... tôi quên hẳn điện ảnh. Tôi lo đưa vợ con sơ tán lên Hà Tây rồi trở về Hà Nội sống giữa những ngày chiến tranh ác liệt nhất. Khi bom B52 ném vào phố Khâm Thiên, tôi lập tức có mặt ngay sau đó. Từ sau khi cha tôi mất, tôi cảm thấy cái chết không có gì xa lạ cả. Sẽ có lúc nào đó nó sẽ đến với tôi cũng như đã đến với cha tôi.

Ba tháng sau tôi lại được gọi lên Bộ. Đồng chí Hà Huy Giáp nói rằng tôi phải có một nghề nghiệp hẳn hoi. Nếu tôi muốn đi học Y để nối nghiệp cha tôi thì trên sẽ giới thiệu thẳng vào trường Y, không cần thi cử gì cả. Tôi hiểu rằng sự quan tâm của trên đối với tôi đã thành một chủ trương, và đã là một chủ trương thì người ta phải thực hiện bằng được. Tôi trình bày với bác Giáp như sau:
- Học Y bây giờ đối với tuổi cháu thì quá muộn rồi. Ngoài nghề phiên dịch ra cháu chỉ có thể làm được một việc trong điện ảnh đó là làm đạo diễn. Nếu không được làm đạo diễn phim tài liệu, thì cháu đành phấn đấu để làm đạo diễn phim truyện vậy.

Giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy Xưởng phim Truyện bấy giờ là ông Trần Ngọc Lưu. Có lẽ ông đã được Bộ dặn dò kỹ lưỡng nên tiếp tôi với một thái độ ân cần. Tuy vậy ông cũng nói thật với tôi rằng nếu về Xưởng làm đạo diễn chính thì không được. Ông sẵn sàng nhận tôi về Phòng đạo diễn của Xưởng với tư cách là phó đạo diễn. Tôi nhận lời vì cương vị phó đạo diễn là một chức danh, có những nhiệm vụ cụ thể trong một đoàn phim (chứ không như cái chức danh mà người ta đã nghĩ ra cho tôi ở Xưởng phim Tài liệu). Vậy là sau 12 năm, tôi thoát được nghề phiên dịch mà Nhà nước đã dầy công đào tạo cho tôi trong 18 tháng trời ở Liên Xô. Vâng, khi còn học ở trường tôi được dậy dỗ rằng làm nghề gì cũng vinh quang, nhưng tôi không thể theo đuổi cái vinh quang của nghề phiên dịch này mãi được. Dầu sao tôi cũng cám ơn Nhà nước đã trang bị cho tôi một thứ ngoại ngữ - đó là tiếng Nga. Nhờ có nó mà tôi đã tiếp cận được với thế giới bên ngoài, nhờ có nó mà tôi đã đến với điện ảnh để từ đó gắn bó suốt đời với môn nghệ thuật này.

PHÒNG ĐẠO DIỄN XƯỞNG PHIM TRUYỆN VIỆT NAM

Xưởng phim truyện hồi đó được phân thành các phòng, trong đó có Phòng đạo diễn. Đạo diễn phim truyện hồi đó chỉ có vài chục người, không đông hàng trăm như bây giờ và không phải bất cứ ai cũng có thể làm đạo diễn như bây giờ. Sinh hoạt tại phòng đạo diễn có ba lớp người: những đạo diễn kỳ cựu có mặt từ ngày đầu thành lập Xưởng như các đạo diễn Phạm Văn Khoa, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Tiến Lợi... Các đạo diễn được đào tạo tại trường Điện ảnh khóa I dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Liên Xô như: Trần Vũ, Hải Ninh, Bạch Diệp, Huy Thành, Nông Ích Đạt, Nguyễn Đức Hinh... và lớp đạo diễn học Liên Xô về trong đó có những người học hết 5 năm như Nguyễn Khắc Lợi, Lê Đăng Thực và những người học dở dang thì bị gọi về vì Liên Xô bắt đầu thời kỳ xét lại như: Trần Đắc, Bùi Đình Hạc, Nguyễn Thụ, Nguyễn Đỗ Ngọc. Ồn ào hơn cả là cánh học ở Liên Xô về mà anh em vẫn gọi là cánh Vờ-Gích (tên viết tắt trường Đại học điện ảnh Liên Xô). Có một điều cần ghi nhận: hồi đó tất cả các anh đều say sưa với mộng sáng tác, chưa ai nghĩ đến chuyện tiến thân bằng con đường quan chức như sau này. Những buổi sinh hoạt ở Phòng đạo diễn thật sôi nổi. Các đạo diễn học ở Liên Xô về thường hay đem những tên tuổi "ốp, ép" ra để tranh luận học thuật. Tôi thường nghe họ nhắc đến các tên tuổi sau: Iukevich, Prep, Bonarsuc, Mikhai Rôm, đặc biệt là tên nhà biên kịch Gabrilovich... cứ như tất cả đều là bạn thân của họ cả. Ngay khi về phòng đạo diễn tôi gặp ngay sự phản ứng mạnh mẽ của cánh Vờ-Gích, những người tự coi là được đào tạo chính quy nhất lúc bấy giờ. Trong một cuộc họp có người đã lớn tiếng cho rằng, không thể vì chính sách ưu tiên con liệt sĩ mà đưa một người không có học hành, không bằng cấp về làm đạo diễn được. Như thế là xúc phạm tới cái nghề đạo diễn cao quý.

Hồi ấy ai làm phim gì đều theo sự phân công của Đảng ủy. Mỗi đoàn làm phim đều thành lập một chi bộ để lãnh đạo công việc làm phim. Những phim lớn, phục vụ những nhiệm vụ chính trị lớn thì giao cho các đạo diễn cỡ lớn. Những đạo diễn cỡ nhỏ được giao làm những phim cỡ nhỏ, cốt để hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch, tranh cờ thi đua của Bộ. Cánh phó đạo diễn đương nhiên phải theo sự phân công của Ban Giám đốc, nhưng còn phải được các đạo diễn chính chấp nhận. Tôi không hy vọng gì được các đạo diễn lớn, các đạo diễn Vờ-Gích chấp nhận nên kiên nhẫn chờ đợi. Phải gần hai năm sau tôi mới được phân đi theo đoàn phim Chị Nhung với đạo diễn Nguyễn Đức Hinh, một đạo diễn người miền Nam, vốn là một cán bộ tiểu đoàn tập kết ra Bắc, rồi chuyển sang học lớp đạo diễn trong nước. Tôi chẳng cần biết phim nói chuyện gì, miễn được đi làm phim là sướng rồi (chỉ biết đây là một phim chuyển thể theo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng). Khi cùng đạo diễn Nguyễn Đức Hinh bắt tay vào công việc tôi cũng không mấy quan tâm tới nội dung kịch bản, bởi đó là câu chuyện về một nữ biệt động Sài Gòn, hoạt động trong lòng địch, một môi trường mà tôi chẳng có chút thực tế gì. Anh Hinh là cán bộ quân đội, người miền Nam, anh biết hơn tôi. Tôi chỉ làm nhiệm vụ tổ chức các cảnh quần chúng, hò hét, chạy đi chạy lại, đúng trách nhiệm của một phó đạo diễn chỉ đâu đánh đấy. Nhưng rồi tiến bộ làm phim quá chậm vì đạo diễn Hinh lần đầu tiên làm phim chưa có kinh nghiệm dàn cảnh, lại thêm nhà quay phim Dương Đình Bá học ở Trung Quốc về, vốn tính cẩn thận nên quay rất chậm. Khi phim đã quay được một nửa, bí thư chi bộ của đoàn là họa sĩ Trần Kiềm đã đề nghị với Đảng ủy Xưởng phim cho tôi được làm đạo diễn thứ hai để có thể giúp đẩy nhanh tiến độ sản xuất. Đảng ủy và đạo diễn Nguyễn Đức Hinh chấp thuận. Tôi được nhẩy từ phó đạo diễn lên đạo diễn thứ hai (một việc mà thông thường phải mất ít nhất vài năm trong nghề). Bộ phim hoàn thành được người xem hoan nghênh bởi gương mặt tươi trẻ của nữ diễn viên chính Ái Vân lần đầu xuất hiện trên màn ảnh. Riêng đối với tôi, bộ phim chẳng để lại ấn tượng gì, nó hoàn toàn xa lạ với phong cách sáng tác của tôi sau này.

Thời kỳ này các đạo diễn Vờ-Gích bắt đầu lần lượt ra quân. Lê Đăng Thực với phim Độ dốc; Bùi Đình Hạc với Chùm hoa thiên lý, Đường về quê mẹ; Trần Đắc với phim Ga, Bài ca ra trận; Nguyễn Khắc Lợi với Lá cờ chuẩn, Bức tường không xây; Nguyễn Thụ với Bức tranh để lại; Nguyễn Đỗ Ngọc với Không phải tại tôi... Các đạo diễn được đào tạo trong nước thì ra sức chứng minh mình cũng không thua kém gì cánh học nước ngoài về. Hải Ninh làm Rừng o Thắm,Vỹ tuyến 17 ngày và đêm; Trần Vũ làm Chuyến xe bão táp, Vợ chồng anh Lực; Huy Thành làm Vùng trời, Phía Bắc thành phố; Bạch Diệp làm Ngày lễ thánh v.v... Các phim khi tổng kết hằng năm đều được lãnh đạo đánh giá để xếp hạng. Mỗi lần tổng kết như vậy cả Xưởng đều tụ tập đông đủ tại hội trường hồi hộp lắng nghe ý kiến của Thứ trưởng Hà Xuân Trường. Phim nào được ông nhắc đến đầu tiên coi như phim đầu bảng, cứ thế mà biết thứ tự của các phim được trên đánh giá như thế nào. Ngày ấy làm phim không phải vì mình, vì người xem mà vì cấp trên. Đại diện cho cấp trên ngày đó là Thứ trưởng Bộ Văn hoá Hà Xuân Trường. Ông này bao giờ cũng đánh giá cao các phim của đạo diễn Hải Ninh và biên kịch Hoàng Tích Chỉ. Họ trở nên cặp bài trùng, át chủ bài của xưởng. Cũng vì sự đánh giá đó mà tự nhiên trong đội ngũ đạo diễn biên kịch của Xưởng hình thành 3 nhóm: Nhóm Hải Ninh-Hoàng Tích Chỉ, nhóm Trần Đắc-Trần Kim Thành và nhóm Trần Vũ-Bành Bảo. Mỗi nhóm có những đệ tử đông đảo vây quanh. Riêng các đạo diễn lão thành như Phạm Văn Khoa, Phạm Kỳ Nam đứng ra một bên không tham gia phe nhóm nào. Còn tôi đương nhiên đứng ngoài cuộc. Tôi vào nhóm của những người ngồi chiếu cuối trong phòng đạo diễn cùng các anh Phan Vũ, Bắc Xuyên, Trúc Lâm. Phan Vũ vốn là một tác giả sân khấu có tên tuổi, về Xưởng làm biên kịch, nhưng rồi dính vào nhóm Nhân văn nên bị đẩy xuống làm phó đạo diễn. Trúc Lâm cũng vậy, từng là đạo diễn lồng tiếng một số phim Liên Xô rất hay, nhưng có thơ đăng trong Giai phẩm (tạp chí của nhóm Nhân văn) nên chỉ được giao làm đạo diễn các phim sân khấu cùng với Bắc Xuyên. Cả xưởng ai cũng ngại gần Phan Vũ vì sợ tổ chức để ý, trừ tôi và một vài người như Tự Huy, Trung Tín. Phan Vũ hay làm thơ và đọc thơ cho tôi nghe. Cứ mỗi lần họp Phòng đạo diễn xong anh lại rủ tôi về nhà anh, trên đường không quên ghé qua thăm diễn viên Trung Tín để xem tranh. Không biết ai xui khiến Tín đóng cửa suốt ngày vẽ tranh. Tín xin bột màu của xưởng đem về vẽ lên giấy báo. Tín vẽ như điên, quên ăn quên ngủ. Từ ngày say mê với hội họa, không còn ai nhận ra diễn viên Trung Tín ngày nào, một đảng viên trẻ năng nổ, một Bí thư Đoàn Thanh niên của cơ quan. Tranh của Tín ngây ngô, hồn nhiên như con trẻ nhưng chất chứa một nỗi đau nào đó. Bức nào của anh cũng có những mặt người với hai hốc mắt sâu hoắm. Tín thường đem tranh ra khoe với tôi và Phan Vũ, và lần nào cũng nói: Phái vừa xem xong, thích lắm (Phái là hoạ sĩ Bùi Xuân Phái). Rồi Tín mơ màng mong có ngày đem tranh bày ở Paris. Tôi và Vũ cùng phụ họa tâng bốc Tín lên tận mây xanh (ngờ đâu bây giờ tranh Tín được trưng bày ở Paris thật). Năm 75 sau khi thống nhất Tín trở về Nam. Không lâu sau anh đánh một bức điện ra Hà Nội xin thôi cơ quan và ra khỏi Đảng. Cả cơ quan sửng sốt cho rằng Tín vào Nam đã bị ăn đạn bọc đường. Riêng tôi thì không lấy gì làm ngạc nhiên vì tôi biết Tín đã lấy hội họa làm lý tưởng của đời mình. Con người ta không thể tôn thờ cùng một lúc nhiều lý tưởng. Phan Vũ viết văn, làm thơ rất hay. Trong mắt tôi kịch bản do Vũ viết hay hơn nhiều kịch bản được xưởng thông qua hồi ấy, nhưng chúng không bao giờ được duyệt. Vợ anh là nữ diễn viên đầu tiên của điện ảnh Việt Nam - chị Phi Nga. Anh yêu vợ và yêu các phụ nữ đẹp. Những người phụ nữ ấy đã mang lại chất lãng mạn trong thơ anh. Bài thơ Em ơi Hà Nội phố viết xong, anh đọc cho tôi nghe đầu tiên trên căn gác nhà anh ở phố Hàng Bún. Tôi còn thân với đạo diễn Bắc Xuyên vì nhà anh ở phố Trần Xuân Soạn cách nhà tôi ở Hàn Thuyên không xa. Bắc Xuyên không phải là đảng viên nên chỉ chuyên được phân làm đạo diễn các phim sân khấu. Lần đầu tiên anh được phân làm phim truyện dài là phim Đến hẹn lại lên theo kịch bản của Vương Đăng Hoàn. Nhưng sau khi phân công xong, Đảng ủy, ban Giám đốc xưởng thấy chưa yên tâm, bèn cử đạo diễn Trần Vũ và biên kịch Bành Bảo đi theo để kèm cặp giúp đỡ. Trong qua trình kèm cặp giúp đỡ đó Bắc Xuyên dần dần cảm thấy mình bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Lòng tự trọng bị tổn thương và trong phút phẫn chí không tự kiềm chế được, anh đã bị một chiếc xe tải cán chết khi vừa ra khỏi cổng Xưởng phim (không ít người nghĩ rằng đây là một cuộc tự sát). Riêng trường hợp đạo diễn Nông Ích Đạt uống thuốc ngủ thì rõ ràng là một vụ tự sát không thành. Lý do cũng chỉ vì lòng tự trọng bị tổn thương như trường hợp Bắc Xuyên (lần này là với phim Hai người mẹ). Sau những sự việc bi thảm trên, tôi bắt đầu cảm nhận cái khốc liệt của chốn bon chen này. Nhưng dù sao, tôi đã dấn thân vào rồi...

Vào đúng lúc đang hoang mang ấy, trên yêu cầu xưởng cử 2 người đi thực tế ở chiến dịch đường 9 Nam Lào. Tôi liền xung phong đi cùng đạo diễn Huy Thành. Anh với tôi cùng đồng hương Huế nên hai anh em đi với nhau chăm sóc nhau rất cảm động. Chúng tôi được bố trí đi theo đường dây của Bộ Tư lệnh 559 để vào chiến trường. Vào đến Bộ Tư lệnh 559 tôi vui mừng gặp Phạm Tiến Duật, nhà thơ của những chiếc xe không kính, đang là cán bộ Phòng Văn nghệ ở đây. Phòng văn nghệ đóng trong một hầm sâu, lương thực thực phẩm ê hề, ăn không hết còn đổ để nuôi lợn. Lúc ấy Duật vừa mới làm xong bài thơ Người ơi người ở… bèn đọc cho tôi nghe. Nghe xong tôi thông báo cho Duật biết bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây của Duật mới được phổ thành bài hát. Trên đường vào đây tôi có được nghe ca sỹ Huyền Châu của đoàn văn công Hà Nội hát rất hay. Tôi đề nghị Duật chờ đoàn vào biểu diễn thì đọc tặng cô ca sỹ nọ. Hai hôm sau đoàn văn công đến, được Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên tiếp trong hầm chỉ huy. Tôi và anh Huy Thành cũng có mặt trong buổi tiếp đó. Ca sỹ Huyền Châu đã hát bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây lần đầu tại mặt trận 559. Sau đó Phạm Tiến Duật đứng lên đọc tặng cô bài thơ Người ơi người ở... coi như mới sáng tác tức thì làm ca sỹ Huyền Châu hết sức xúc động. Bộ Tư lệnh đóng trong một cái hang rộng khoét sâu trong lòng núi. Bom B52 có rơi trúng cũng chẳng hề gì (trừ bom nguyên tử). Tôi đau xót nghĩ: giá cha tôi hồi đi B được ở trong cái hang như thế này, chứ không phải tự đào lấy hầm để rồi bom rơi trúng trong lúc đang đào. Trong chiến tranh thì Giáo sư chẳng phải là cấp bậc gì quan trọng.

Khi chúng tôi vào tới đường 9 thì chiến dịch Đường 9 Nam Lào vừa kết thúc. Đại tá Thọ đã bị bắt. Đồi Bản Đông chỉ còn trơ lại những hầm hào xây bằng bao cát của địch, súng ống đạn dược vương vãi khắp nơi. Nhiều lính ngụy bị thương ngồi bệt xuống bên đường với đôi mắt tuyệt vọng cầu cứu (tôi nhớ đến những hố mắt trong các bức tranh của Tín). Lần đầu tiên tôi nhìn thấy một phần nào gương mặt thật của chiến tranh. Sau đó, tôi và anh Huy Thành được đưa xuống các binh trạm để tìm hiểu thực tế chiến đấu của các chiến sỹ trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Gọi là đường mòn nhưng đó là những con đường rộng cho xe vận tải chở vũ khí lương thực tiếp tế vào Nam. Những ngày ấy, địch bắt đầu dùng máy bay vận tải DC 130 trang bị súng máy bắn vãi đạn như mưa dai dẳng suốt đêm không lúc nào ngưng nghỉ. Nhiều xe bị bắn thủng két nước, lái xe bị trúng thương vào đùi, có lúc mười xe chỉ đi lọt một xe, còn lại đều dính đạn nằm la liệt dọc đường. Đó là những ngày căng thẳng nhất trên tuyến đường 559. Vào đến binh trạm 33 gần Trị Thiên tôi được gặp một số anh em thương binh trong Tết Mậu Thân vẫn còn nằm điều trị tại đây, nghe bao nhiêu chuyện đau lòng về Tết Mậu Thân ở quê tôi. Nhiều thương binh đã kể lại rằng trong những ngày cố thủ ở cố đô Huế máu ngập trong chiến hào đến mắt cá chân, nhưng các anh vẫn chưa có lệnh rút, đành phải cố thủ. Nhiều cụ già phải quỳ lạy, van xin các anh rút đi để còn có ngày quay trở lại.
Sau chuyến đi đó, tôi có viết một số bút ký và truyện ngắn được đăng trên báo Văn nghệ. Tôi bắt đầu viết văn từ đấy.

BAO GIỜ CHO ĐẾN THÁNG MƯỜI

Tôi bắt tay viết kịch bản Bao giờ cho đến tháng Mười xuất phát từ nỗi đau của gia đình tôi, từ nỗi đau của hàng vạn, hàng triệu người có người thân ngã xuống trong chiến tranh. Đó là những điều đã có sẵn trong tôi, không phải tìm kiếm đâu xa cả. Chỉ cần tìm hình thức hiện nữa thôi. Một lần ngồi trú mưa trên trong quán nước ven đường ở huyện Quế Võ, tỉnh Hà Bắc, tôi nhìn thấy dưới cánh đồng xa xa, một đoàn người lầm lũi đi trong mưa. Khi đoàn người đến gần tôi nhận ra đó là một đám tang. Theo sau chiếc kiệu có bốn người khiêng là một phụ nữ trẻ quấn khăn trắng, dắt một đứa con trai chừng 7 tuổi. Bà con trong quán cho biết chồng chị là bộ đội đi B, hy sinh đã lâu, nhưng bây giờ người ta mới báo tin cho gia đình biết và làm lễ rước hương hồn người chiến sĩ về yên nghĩ tại nghĩa trang của làng. Còn anh đang nằm ở đâu trên chiến trường miền Nam, đến bây giờ không ai biết. Người phụ nữ chít khăn tang đi dưới chiều mưa hôm ấy chính là chị Duyên sau này trong bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười.



Mở đầu phim là cảnh chị Duyên về làng sau khi vào Nam thăm chồng về. Nhưng chồng chị đã không còn nữa. Anh đã hy sinh trong một trận chiến đấu ở biên giới Tây Nam. Vì nỗi đau quá bất ngờ, vì đường xa mệt nhọc nên khi qua đò chị đã bị ngất đi, rơi xuống sông. May có Khang, một giáo viên trong làng đi cùng đò đã nhẩy xuống sông vớt được chị. Khang cũng vớt lên được tờ giấy báo tử của chồng Duyên nên anh trở thành người đầu tiên biết cái tin này. Nhưng Duyên lại muốn dấu kín tin dữ đó, chị không muốn làm cho bố chồng đang già yếu phải đau buồn. Chị đã nhờ Khang viết những lá thư giả để làm yên lòng những người trong gia đình chồng. Mối quan hệ thầm kín của hai người bắt đầu từ đó. Cảm động trước sự hy sinh chịu đựng và nỗi mất mát của Duyên, Khang đã đem lòng yêu mến cô, muốn được thay thế người đã mất, lo toan cho hạnh phúc cho cô và đứa con lên 7 tuổi. Anh viết thư bộc lộ những tình cảm đó với Duyên. Không may bức thư lọt vào tay bà chị dâu và câu chuyện vỡ lở khắp làng. Khang mang tiếng là người yêu phụ nữ có chồng là bộ đội đang chiến đấu ở xa. Anh bị điều đi dậy ở nơi khác. Còn Duyên vẫn âm thầm chịu đựng nỗi đau cho đến một ngày ông bố chồng sắp hấp hối bắt cô phải đánh điện xin cho chồng về. Thấy Duyên chần chừ, đứa con trai lên 7 đã tự ý lên bưu điện huyện để đánh điện cho bố. Giữa đường nó xin đi nhờ một xe commanca chở bộ đội. Những người lính trên xe biết rõ sự tình bèn đánh xe quay về làng. Khi họ về đến làng, đứng bên giường của bố chồng Duyên thì cũng vừa lúc cụ trút hơi thở cuối cùng sau khi tin rằng con trai mình đã về. Mọi người trong làng bây giờ mới biết rằng chồng Duyên đã hy sinh, họ không còn hiểu lầm Khang nữa, nhưng anh đã đi rồi. Bây giờ Duyên lại mong tin anh, mong anh trở lại... Ngày khai giảng, cô đưa con đến trường và hỏi thăm tin anh.

Kịch bản Bao giờ cho đến tháng Mười được Cục Điện ảnh thông qua một cách nhanh chóng không gặp trắc trở gì, chỉ yêu cầu không được để thầy giáo Khang yêu cô Duyên (hồi ấy ông Nguyễn Thụ làm Cục trưởng). Nhưng đối với tôi, không có mối quan hệ đó thì còn gì là phim. Chấp hành ý kiến của Cục tôi chỉ làm nhẹ mối quan hệ đó chứ không bỏ hẳn. Giám đốc Hãng phim lúc này là ông Hải Ninh. Ông đã cử cho tôi một chủ nhiệm phim yếu nhất Hãng, chưa làm chủ nhiệm chính một phim bao giờ. Ông đã phân cho tôi một máy quay phim Côn-vát cũ của Liên Xô chất lượng kém nhất Hãng, đến nỗi trong lúc quay phá hỏng không biết bao nhiêu thước phim, buộc tôi phải quay đi quay lại nhiều lần. Không chịu được nữa tôi bèn tự đi mượn một máy quay của Viện Sốt rét Ký sinh trùng và Côn trùng (nơi cha tôi trước kia làm Viện trưởng) để quay nốt nửa phim còn lại. Đây là chiếc máy quay Côn- vát do Liên xô viện trợ cho Viện để quay các phim giáo khoa về phòng chống sốt rét. May thay nó còn rất mới vì ít được dùng tới. Trong lúc đang quay giữa chừng, nhà quay phim Nguyễn Lân (vốn là giảng viên quay phim của trường Điện ảnh được Hãng mời sang quay cho phim này) bỗng nhiên thông báo sẽ đi Campuchia để giảng giậy trong 1 tháng (những ngày ấy được đi Campuchia là một dịp may rất có hời, ít ai từ chối). Không thể dừng cả đoàn chờ đợi được, tôi quyết định sẽ làm việc với phó quay phim Phạm Tiến Đạt. Ông Lân biết vậy tuyên bố với giám đốc Hải Ninh rằng sau khi đi Campuchia về sẽ không quay lại đoàn phim nữa. Giám đốc Hải Ninh tức tốc vào đoàn phim yêu cầu ngừng quay, không chấp nhận phó quay phim Phạm Tiến Đạt làm quay chính. Nhưng khi vào tới nơi, thấy tôi vẫn bình tĩnh làm việc với Đạt, công việc vẫn tiến hành đều đặn, ông trở về và vài hôm sau cử nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy xuống đoàn để phụ giúp. Vậy là trong phim này thực chất có 3 quay phim với 3 phong cách khác nhau khiến tôi phải vất vả rất nhiều để giữ sự thống nhất trong các cảnh quay. Tôi đã mời nữ diễn viên Lê Vân vào vai chính của phim, để rồi từ đó tên tuổi của cô gắn liền với hình ảnh chị Duyên, người vợ liệt sỹ, tiêu biểu cho hàng vạn hàng triệu phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh. Trước đó Lê Vân đã xuất hiện trong một vài phim nhưng để lại ấn tượng nhất cho khán giả đến nay vẫn là vai Duyên trong phim Bao giờ cho đến tháng 10. Khi bộ phim hoàn thành xong giám đốc Hải Ninh yêu cầu cắt bỏ trường đoạn chợ Âm Dương với lý do mê tín dị đoan. Đây là một trong những trường đoạn tâm đắc nhất của tôi trong phim này, nó đến với tôi không phải là tình cờ. Từ lâu tôi có đọc trong kho tàng truyện cổ Việt Nam có một truyện làm tôi hết sức chú ý. Đó là câu chuyện về đôi vợ chồng trẻ, không may người chồng bị chết một cách oan ức. Anh báo mộng dặn chị chờ đến phiên chợ Mạch Ma thì đến để anh gặp. Tại phiên chợ đó hai người đã gặp được nhau. Người chồng đã nói rõ sự oan ức của mình để chị vợ kêu lên cửa quan. Truyện còn ghi rõ chợ Mạch Ma ấy nằm ở Quảng Yên. Một lần trên đường đi Hạ Long, khi qua bến phà Rừng, xe dừng lại ở Quảng Yên và tôi bàng hoàng nhận ra mình đang ngồi uống nước trong chính cái chợ Mạch Ma đó. Sau này lên Hà Bắc tình cờ tôi cầm trên tay cuốn Địa dư chí Hà Bắc. Trong sách đó, ở mục Chợ Hà Bắc có ghi rõ những thôn nào, xã nào, ngày giờ nào, có những phiên chợ Âm Dương. Qua hai sự việc trên tôi nhận ra rằng trong tâm thức của người Việt Nam không có sự cách biệt giữa cõi Âm và cõi Dương, giữa người sống và người chết đúng như cụ Nguyễn Du đã viết: Thác là thể xác, còn là tinh anh. Đó là một đặc điểm tâm lý rất Việt Nam. Nhưng giám đốc Hải Ninh không quan tâm tới điều đó. Ông chỉ sợ cấp trên phê bình là phim mang mầu sắc duy tâm huyền bí, tuyên truyền cho mê tín dị đoan.

Trước áp lực của ông tôi đành nhân nhượng cắt ngắn bớt trường đoạn này, điều làm tôi đau xót vô cùng. Nhưng giám đốc Hải Ninh vẫn chưa yên tâm, bắt tôi phải bỏ hẳn. Ông thường có một lập luận thoạt nghe rất có lý: bộ phim làm ra không phải của cá nhân một ai. Nó là tài sản chung, là cơm áo gạo tiền của cả Hãng. Nếu phim có gì trục trặc, trên không cho ra thì hàng trăm cán bộ công nhân viên Hãng chết chứ không chỉ mình đạo diễn. Bởi vậy người giám đốc mới là người có trách nhiệm chính đối với bộ phim. Tôi không thể chấp nhận cái lập luận kiểu đó và cương quyết không chịu cắt bỏ thêm một cảnh nào nữa trong trường đoạn chợ âm dương. Không còn cách nào dồn ép tôi được, giám đốc Hải Ninh bèn mời các cấp trên xuống xem trước cho an toàn. Có lẽ chưa có phim nào của điện ảnh Việt Nam lại phải duyệt đi duyệt lại nhiều tầng nhiều nấc như bộ phim này. Cứ mỗi nấc duyệt lại nảy sinh thêm những rắc rối mới. Mặc dầu Thứ trưởng Bộ Văn hoá Đình Quang ủng hộ nhưng Thứ trưởng Vũ Khắc Liên lại băn khoăn không biết lúc này đã nên nói đến chuyện đau thương mất mát trong chiến tranh chưa? Ông cho biết ở Liên Xô 15 năm sau chiến tranh người ta mới làm phim Khi đàn sếu bay. Ở ta chiến tranh vừa mới chấm dứt không lâu, ở biên giới Tây Nam vẫn còn chiến sự, cần động viên thanh niên ra trận bảo vệ Tổ quốc. Nên xin ý kiến thêm các anh ở trên. Cứ như vậy lần lượt các Thứ trưởng đến Bộ trưởng trong Bộ, rồi tới ủy viên Bộ Chính trị Tố Hữu, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Nguyễn Đức Tâm và rồi cuối cùng là tới Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh duyệt. Tổng cộng tất cả là 13 lần duyệt. Tôi cảm tưởng như mình là kẻ tội phạm bị các phiên tòa lôi ra xét xử liên tục. Tưởng đã thoát được trong phiên này lại bị lôi ra xử lại trong phiên khác. Trước khi được gọi đem phim tới chiếu tại nhà Tổng Bí thư Trường Chinh tôi nói với các đồng sự: có lẽ đây là phiên xử cuối cùng. Đồng chí Trường Chinh ăn cơm tối xong cùng cả nhà ra phòng khách để xem phim. Một chiếc máy quay lưu động đã được đặt sẵn giữa phòng. Đèn tắt. Phim bắt đầu chiếu trong tiếng máy chạy rè rè. Tôi ngồi một góc phòng bên cạnh nữ diễn viên Lê Vân hồi hộp quan sát thái độ của đồng chí Tổng Bí thư. Tôi thấy đồng chí im lặng xem, theo dõi diễn biến trên phim không biểu lộ thái độ gì. Khi đèn bật sáng, đồng chí chậm rãi tiến về phía nữ diễn viên Lê Vân bắt tay và chỉ nói mỗi một câu: Thương lắm. Rồi đi vào. Đồng chí thư ký của Tổng Bí thư bảo chúng tôi ra về, ông sẽ truyền đạt ý kiến của Tổng Bí thư xuống cho lãnh đạo Hãng sau. Cả đoàn ra về phấp phỏng, không biết hai chữ thương lắm có phải là lời phán quyết cuối cùng chưa? Chúng tôi kéo nhau đi ăn phở. Tôi nói đùa với Lê Vân: Biết đâu ông nói thương là thương cháu chứ không phải thương cô Duyên thì sao? Những nhà chính trị nói ít nhưng ta phải hiểu nhiều. Tôi nhớ lần đem phim này vào chiếu cho ông Tố Hữu duyệt. Xem xong ông chỉ nói một câu: Gãi đúng chỗ ngứa thế này thì thiên hạ thích đây. Mãi về sau tôi mới hiểu chỗ ngứa mà ông nói nghĩa là gì. Đó là nỗi đau, 1 sự mất mát trong chiến tranh trong mỗi gia đình người Việt Nam. Tôi đã chạm vào nỗi niềm đó, và chỗ đó theo ông là chỗ ngứa. Tôi bỗng nhớ đến những câu thơ mà ông đã từng viết thuở còn trong bóng tối trong bài Tiếng hát sông Hương: Ngày mai thôi kiếp lầm than... Sẽ đưa em đến một vườn đầy xuân v.v... Ý nghĩ về bộ phim Cô gái trên sông của tôi bắt đầu hình thành từ đấy.

Sau lần đem phim vào chiếu cho Tổng Bí thư xem tôi không thấy giám đốc Hải Ninh hành gì nữa. Vụ xử đã kết thúc. Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười đã được tha bổng. Lập tức nó được khán giả trong cả nước đón nhận một cách hết sức nồng nhiệt. Không những thế nó còn nhận được mối thiện cảm rất lớn của khán giả nước ngoài. Có lẽ đây là một phim truyện đầu tiên của Việt Nam đến được với công chúng ngoài biên giới sau năm 75. Tôi được Đại sứ quán Pháp cấp học bổng sang tu nghiệp tại Pháp trong một năm. Một tháng sau khi tôi tới Paris. Bộ ngoại giao Pháp đã long trọng tổ chức chiếu ra mắt bộ phim này tại rạp chiếu bóng Cosmos trên đại lộ Rue de Reinnes ở trung tâm thành phố. Điều này làm Đại sứ quán ta tại Paris rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay chưa thấy họ làm như vậy bao giờ. Giấy mời tới xem phim được in rất trang trọng. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Roland Dumas và Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp Jack Lang cùng đứng tên trên giấy mời. Khách mời là ngoại giao đoàn ở Paris, giới văn nghệ sĩ, điện ảnh Pháp, đại diện Việt Kiều. Có thể nói buổi chiếu đã thành công mỹ mãn. Nhà văn kiêm nữ ký giả Pháp Madeleine Riffaut sau khi xem xong nước mắt dàn dụa ôm hôn tôi hồi lâu. Rồi chị ngỏ ý muốn nhận tôi làm em nuôi. Sau buổi chiếu đó tôi có thêm biết bao bạn bè người Pháp và người Việt sống ở Paris.

Khỏi phải nói sự háo hức của tôi khi lần đầu tiên được đến Paris. Những ngày nghỉ cuối tuần chị Madeleine dẫn tôi đi thăm những danh lam thắng cảnh, giới thiệu với tôi những nơi từng ghi dấu ấn của những danh nhân văn hóa Pháp và thế giới. Một lần chị đưa tôi đến một chiếc cầu bắc qua sông Seine, chỉ cho tôi nơi chị đã bắn một tên sĩ quan SS Đức trong những ngày Paris bị chiếm đóng. Hồi đó chị mới 18 tuổi, được tổ chức giao nhiệm vụ phải hạ sát tên sĩ quan này. Người ta cho biết hắn có thói quen cứ đến 5 giờ chiều thì bỏ hết mọi công việc để ra đây ngắm hoàng hôn trên sông Seine. Đó là thời điểm thích hợp nhất để hạ sát hắn. Và chị đã làm như vậy vào một buổi chiều như vậy trên chiếc cầu này. Chị trở thành người con gái tiêu biểu của Paris kháng chiến kể từ sau chiến công ấy. Nhưng chị nói với tôi: Cho đến bây giờ chị vẫn còn chút ân hận, giá chị bắn hắn vào một lúc khác, không phải là cái lúc hắn đang ngắm hoàng hôn thì hơn... vào cái phút đó, hắn là một con người biết thưởng thức cái đẹp. Chị còn đưa tôi đến một căn nhà hầm ẩm thấp nơi chị đã từng ngồi viết cuốn Trong rừng rậm Việt cộng kể về chuyến đi vào khu giải phóng của Mặt trận Giải phóng miền Nam năm 1972. Những kỷ niệm đầu tiên của tôi với Paris đều gắn liền với người phụ nữ xinh đẹp này (Picasso đã từng vẽ chân dung chị). Chị còn tâm sự với tôi về một cuộc tình với một người đàn ông Việt Nam mà chị cho là không rõ chị đã yêu con người ấy hay là yêu Việt Nam qua con người cụ thể ấy, chị cũng không biết nữa.

Trước khi bước vào thực tập về điện ảnh tôi được xuống thành phố Vichi ở miền Nam nước Pháp để ôn luyện tiếng Pháp. Tôi được sống một quãng đời sinh viên rất ngắn ngủi (chỉ có hai tháng) giữa những sinh viên đủ mọi quốc tịch trên thế giới đến du học tại Pháp.

Đó là những ngày hạnh phúc đối với tôi. Không lâu sau Đại sứ quán ta ở Paris nhắn tôi đến gấp có việc cần trao đổi. Đại sứ Hà Văn Lâu cho biết Liên hoan phim quốc tế ở Hawaii (Mỹ) điện sang mời tôi có mặt ở Honolulu gấp. Họ đã lo liệu xong vé máy bay cho tôi đi thẳng từ Paris sang Honolulu. Đại sứ Hà Văn Lâu điện về xin ý kiến bên nhà và được Bộ Văn hóa trả lời: chỉ cho đi Pháp chứ không đi Mỹ. Năm đó phim Bao giờ cho đến tháng Mười được bà Ladinki, một bác sĩ Mỹ hoạt động trong Hội khoa học Mỹ Việt xin phép Bộ Văn hoá đem sang Hawaii dự thi và phim đã được tặng giải đặc biệt của Ban Giám khảo. Trước ngày trao giải Bà tìm tôi khắp nơi. Sau này gặp lại ở Hà Nội Bà cho biết ở Liên hoan phim năm đó người ta mong chờ sự có mặt của tôi từng ngày.

Khởi từ Liên hoan phim đó, bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười bắt đầu một cuộc hành trình rất dài qua màn ảnh của rất nhiều quốc gia trên thế giới, mang lại không ít thiện cảm cho đất nước Việt Nam, nền điện ảnh Việt Nam. Sau này tôi được nghe kể lại buổi chiếu đầu tiên của bộ phim tại Honolulu (Hawaii) vào tháng 11.1985 như sau: Các thuyền nhân Việt Nam ở Honolulu nghe có một bộ phim của Cộng sản Hà Nội được chiếu kéo đến đầy xung quanh rạp với những biểu ngữ phản đối. Trước giờ chiếu 15 phút cảnh sát nhận được một cú điện thoại báo tin trong rạp bị cài mìn. Lập tức khán giả được mời ra khỏi rạp. Sau một giờ rà soát, cảnh sát xác định tin kia là thất thiệt mới cho khán giả vào lại. Nhiều thuyền nhân cũng vào xem cốt để gây rối trong khi chiếu. Nhưng buổi chiếu đã kết thúc tốt đẹp trong tiếng vỗ tay và những giọt nước mắt đọng trên mi mắt của nhiều người trong đó có cả những thuyền nhân Việt Nam. Họ xúc động xem từ đầu đến cuối quên cả dự định phá rối. Đó là những ngày căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ-Việt.

Trong những ngày thực tập ở Pháp tôi đã học được rất nhiều điều bổ ích cho nghề nghiệp ở nền điện ảnh Pháp mà tôi từng hâm mộ từ lâu với các tên tuổi như: Alain Resnais, Truffaaut, Godar... Tôi còn phát hiện ra những tên tuổi mới như Pialat, Téchiné, Rhomer... Tôi được xem những phim của R.Polanski, Milos Foman, Andrey Konchalovski... mà tôi thấy rất gần gũi trong phong cách làm phim. Đặc biệt ở Paris tôi còn khám phá cho mình một nền điện ảnh vĩ đại nữa mà tôi chưa hề biết đến bao giờ: nền điện ảnh Nhật Bản của Kurosawa, Ozu, Mizogushi...

Đ.N.M
(169/03-03)

 

Các bài mới
Các bài đã đăng