Tạp chí Sông Hương - Số 290 (T.04-13)
Phải chăng Chu thần Cao Bá Quát là cha đẻ của Phó vương Bắc kỳ Hoàng Cao Khải!?
16:05 | 22/04/2013

THÁI DOÃN HIỂU

Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng.

Phải chăng Chu thần Cao Bá Quát là cha đẻ của Phó vương Bắc kỳ Hoàng Cao Khải!?
Chu thần Cao Bá Quát - Ảnh: internet

Đời Chu có 8 kẻ sĩ: Bá Đạt - Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ - Thúc Hạ, Quý Tuỳ - Quý Đa. Tám hiền sĩ đời Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình: Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những bậc hiền tài giúp nước. Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà Chu) cũng ngụ ý đó.

Về nhân vật kiệt xuất này trong bộ Giai thoại Kẻ sĩ Việt Nam (Nxb. Văn hóa Dân tộc, 1997), tôi đã viết:

“Cao Bá Quát (1808 - 1855) là nhà thơ lớn của dân tộc. Anh hùng thời nhà Nguyễn. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường và Mẫn Hiên. Quê làng Phú Thị, Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thanh liêm. Họ Cao là một cự tộc ở làng Phú Thị, nhiều đời khoa bảng. Anh ruột là Cao Bá Đạt đỗ cử nhân, làm tri huyện Nông Cống, một huyện giàu nhất tỉnh Thanh Hóa. Cao Bá Quát là chú ruột Cao Bá Nhạ, tác giả Trần tình khúc.

Thuở nhỏ, Cao Bá Quát nổi tiếng thần đồng. Năm 1831 (Minh Mạng thứ 12), ông đỗ á nguyên kỳ thi hương ở Thăng Long, nhưng về sau bộ duyệt lại đánh xuống cuối bảng. Những năm về sau (1832 - 1835) hai phen ông vào Huế thi hội đều bị đánh hỏng vì lời văn phóng đạt, “ngông” không chịu khuôn phép song tiếng tăm đã lẫy lừng. Từ đó, Cao thường ngao du đó đây, lấy văn chương phúng thích chính trị làm lẽ sống ở đời. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), theo lời đề cử của quan đầu tỉnh Bắc Ninh, ông được cử vào kinh sung chức hành tẩu bộ lễ. Cao có chân trong Mặc vân Thi xã nổi tiếng của Tùng Thiện công Miên Thẩm và Tuy Lý công Miên Trinh. Đây là thời kỳ Cao Bá Quát và Phương Đình Nguyễn Văn Siêu được nổi danh “Thần Siêu, Thánh Quát”.

Năm 1841, nhân một khoa thi hương - ân khoa của Thiệu Trị, Cao được cử làm sơ khảo kỳ thi Thừa Thiên. Vì mến tài một số sĩ tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh phạm húy. Việc bại lộ, Cao bị tra tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm lao dịch theo một đoàn thuyền của hoàng gia đi mua hàng xa xỉ ở Inđônêxia. Từ nước ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội, sống nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch. Năm 1847, ông được triệu vào kinh, đến năm Tự Đức thứ ba 1850, ông ra làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần như bị đuổi khéo về Bắc.

Năm 1853, Cao Bá Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức giáo thụ và năm sau 1854 làm quân sư cho Lê Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lương (Mỹ Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bọn phong kiến gọi là giặc Châu Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy sinh ngay trong trong trận đánh cuối cùng ở huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di ba họ nhà ông 1855(1).

Cao Bá Quát sáng tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm: Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc Đường thi thảo, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả có trên 1.000 bài.

Thơ Cao Bá Quát nổi tiếng hay, tài năng thi hào được người đương thời và đời sau xem như thần thánh che mờ cả thời Tiền Hán và Thịnh Đường. Đức độ của người được muôn đời kính trọng, xót thương.

Thương ai bảy nổi ba chìm
tấm lòng phản kháng vẫn còn sáng soi.

                        (Sóng Hồng)
*
Trên con đường viễn du Phú Thị - kinh đô Huế, Cao Bá Quát thường ghé thăm anh trai Cao Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống. Tại huyện đường của ông anh có một viên thư lại là Hoàng Văn Đồng. Ông này có một người vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú. Người đẹp Mỹ Lệ thường xướng họa rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ viết về phong cảnh Thanh Hóa như Vịnh Thanh Hóa Miêu Tử sơn (vịnh núi Con Mèo ở Thanh Hóa), Vọng phu thạch (Hòn Vọng Phu Thanh Hóa)… còn lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này. Ở đây, đã nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân. Mối tình của họ kéo dài 5 năm từ 1848 - 1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng thơ tình diễm tuyệt dưới đây là của nàng Mỹ Lệ gửi người tình Chu Thần Cao Báo Quát:

THẤT THẬP DẠ THỪA NGUYỆT, TẨU BÚT KÝ HỮU NHÂN

Thiên cao chúng tinh hy
Minh nguyêt tĩnh như thủy
Tứ tức hậu trùng minh
Sắt sắt kim phong khỉ (khởi)
Đường thượng hữu giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phục chỉ
Bất ưu trường dạ hàn
Đãn tích nguyệt tương mỹ
Thiếp niên thị bát thời
Doanh doanh chính tương tị (tự)
Trưởng đại ái dư nghiên
Thượng tưởng dung nhan mỹ
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao trí
Tài tác hợp hoan thư
Ký tử tâm trung sị (sự)

Dịch nghĩa:

ĐÊM MƯỜI BẢY DƯỚI ÁNH TRĂNG VIẾT CHẠY BÚT GỬI BẠN

Trời cao, sao lác đác
Trăng sáng trong như nước
Lạnh lùng tiếng sâu mùa kêu
Sàn sạt gió vàng nổi dậy.
Trên nhà có một người đẹp
Ngồi tựa lan can buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem đêm đã
khuya chưa
Bước một bước lại dừng một bước
Không lo đêm dài lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn như trăng
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xưa
Những tưởng giữ mãi được như thế
Kéo áo bọc lấy ánh trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ phí
Xén ra thành bức thư hợp hoan
Gửi cho chàng những điều tâm sự.

Dịch thơ:

Trời cao sao lác đác,
Trăng sáng trong như nước,
Sâu mùa kêu tỉ tê,
Gió thu thổi hiu hắt.
Có người đẹp trên lầu,
Tựa lưng buồn nín bặt.
Dậy xem canh mấy rồi,
Dạo quanh lại dừng bước.
Chẳng lo đêm dài lạnh,
Chỉ tiếc trăng hầu khuất.
Thiếp thuở đôi tám xưa,
Vẻ so trăng chẳng khác,
Lớn lên tưởng vẫn còn,
Sắc đắm người như trước.
Túm áo bọc ánh trăng,
Chẳng nỡ hoài bỏ dứt
Xén làm bức thư tình,
Gửi bạn lời tâm phúc!
     
(Khương Hữu Dụng)

Tình cảm quá đẹp giữa hai người qua bài thơ đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850, điều mà Cao Bá Quát mãi mãi không thể ngờ tới là đôi tài tử có với nhau cậu con trai Hoàng Văn Khải - theo khai sinh họ bố chính thống hiện thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi không còn trên thế gian nữa, bà mẹ mới gọi con trai 18 tuổi lại, tiết lộ bí mật này trước khi cậu đậu cử nhân ân khoa 1868 dưới triều Tự Đức - cùng khoa với Phan Đình Phùng. Cậu Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh hoàng, không ngờ mình là một giọt máu của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai sinh lấy chữ Cao ghép vào giữa thành HOÀNG CAO KHẢI!

Hoàng Cao Khải mới đỗ cử nhân, bổ làm huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Tuy quan tước ở hàng tam phẩm nhưng theo năng lực vẫn được Nguyễn Hữu Độ dẫn dắt, tiến cử phong lên làm Tổng đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dương, tổng đốc Bắc Ninh... Với thành tích đánh dẹp phong trào Cần vương ở Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Hoàng Cao Khải đã được Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai Kinh lược Sứ Bắc Kỳ (người Pháp gọi là Phó vương - vice), quyền uy nghiêng ngửa thiên hạ. Cuối đời, ông được triệu về Kinh giữ chức Thượng thư bộ Binh, Phụ chánh đại thần. Rồi lại ra Bắc làm Tổng đốc Hà Đông và mất năm 1933. Nhìn chung, Hoàng Cao Khải là nhân vật lịch sử công ít tội nhiều.

Dòng họ Hoàng Cao ở làng Đông Thái, Tùng Ảnh, huyện La Sơn (nay là Đức Thọ) Hà Tĩnh từ ngày có Hoàng Cao Khải (1850 -1933) là nhà văn, nhà sử học, đại thần dưới triều Thành Thái mới khởi đầu một dòng khoa bảng thật sự với hàng loạt những tên tuổi văn hóa lừng lẫy.

Phải chăng gien di truyền của bậc thiên tài Cao Bá Quát đã lai tạo biến một dòng họ tầm thường trở thành danh gia vọng tộc!?

T.D.H
(SH290/04-13)


.............................................
(1) Nhưng theo dã sử thì lại khác. Cao  không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian dài. Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất trốn trong hang thì có trời bắt được”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy nã Cao Bá Quát của triều đình nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và mãi về sau.








 

Các bài mới
Đêm Los Angeles (26/04/2013)
Tình khúc Huế (26/04/2013)
Các bài đã đăng
Nụ hôn Wasabi (22/04/2013)
Sứ mệnh (16/04/2013)