Tạp chí Sông Hương - Số 41 (T.2&3-1990)
Taibele và con quỷ
08:42 | 08/03/2017

LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

Taibele và con quỷ
I. Bashevis Singer khoảng năm 1977 - Ảnh: internet

ISSAC BASHEVIS SINGER
                        (Israel)


Trong thị trấn Lashnik, không xa Lublin lắm, có hai vợ chồng đang sống với nhau. Chồng tên là Chaim Nossen, vợ là Taibele. Họ chẳng có đứa con nào. Không phải vì cuộc sống chung có gì trắc trở; Taibele đã sinh cho chồng nàng một cậu con trai và hai cô con gái, nhưng cả ba đều chết yểu. Một đứa chết vì bệnh ho gà, một đứa vì bị sốt phát ban và một vì bệnh bạch hầu. Sau đó thì Taibele mất khả năng sinh đẻ. Mọi lời cầu nguyện, mọi thứ bùa chú, mọi thứ thuốc thang đều vô hiệu. Quá đau đớn, Nossen sống tách biệt với mọi người. Chàng xa hẳn vợ, ăn chay, không ngủ ở nhà mà ngủ trên dãy ghế nhà nguyện. Còn Taibele thì có một cửa hiệu vải vóc riêng do cha mẹ nàng để lại, nàng ngồi đó suốt ngày, bên phải là cây thước, bên trái là cái kéo, còn trước mặt là cuốn kinh dành cho phụ nữ viết bằng tiếng Yiddish. Nossen, vóc người cao, gầy, đôi mắt đen và chòm râu lưa thưa, lúc nào cũng có vẻ buồn rầu, lặng lẽ, ngay cả những quãng thời gian tươi đẹp nhất. Taibele thì dáng người nhỏ nhắn, xinh đẹp, với đôi mắt xanh và khuôn mặt tròn trịa. Dù đau khổ, nhưng lúc nào cũng tươi cười, để lộ đôi má lúm đồng tiền duyên dáng, bây giờ, nàng chẳng cần phải nấu ăn cho ai nữa, hàng ngày, nàng chỉ nấu cho mình một ít cháo hay xúp. Nàng tiếp tục đan, khi thì đôi vớ, khi thì chiếc áo, thỉnh thoảng nàng thêu một cái gì đó, bản tính nàng chẳng hề than thân, trách phận, cũng chẳng sầu não gì.

Một ngày kia, Nossen bỏ cái khăn choàng, cái hộp da đựng cuốn sách kinh, bộ quần áo lót và một ổ bánh mì vào túi xách rồi bỏ nhà ra đi. Những người hàng xóm hỏi chàng đi đâu, chàng trả lời. "Đi bất cứ đâu mà đôi mắt tôi nhìn thấy".

Khi người ta báo Taibele hay chồng nàng đã bỏ nàng ra đi thì đã quá muộn. Chàng đã ở bên kia sông rồi. Nghe nói rằng chàng đã thuê một cỗ xe đến Lublin. Taibele bèn thuê một người đi tìm chồng, nhưng cuối cùng chẳng thấy ai trở về. Vào cái tuổi ba mươi ba. Taibele đã thấy rằng mình là một người vợ bị ruồng bỏ.

Sau một thời gian tìm kiếm, Taibele biết rằng nàng chẳng còn hy vọng gì nữa. Thượng Đế đã mang đi cả con, cả chồng nàng. Nàng chẳng bao giờ có thể lấy chồng được nữa. Từ giờ, nàng phải sống hoàn toàn đơn độc. Tất cả cái mà nàng còn lại là căn nhà, cửa hiệu và một ít của cải. Ai cũng thương cảm nàng vì nàng là một phụ nữ kín đáo, tốt bụng và đàng hoàng trong việc buôn bán. Ai cũng tự hỏi: Sao nàng phải chịu những bất hạnh như thế? Nhưng ai mà hiểu ý trời.

Taibele có rất nhiều bạn bè từ thời thơ ấu. Ban ngày, ai cũng bận bịu việc nhà, nhưng chiều lại, đám bạn bè đó thường tụ tập lại tán gẫu với nhau. Về mùa hè, họ thường ngồi trên chiếc ghế trước cửa nhà, kể cho nhau nghe chuyện này, chuyện nọ.

Vào một đêm mùa hè không trăng, khi cả thị trấn chìm trong bóng tối, cùng với đám bạn bè ngồi trên ghế, Taibele kể cho họ nghe một câu chuyện mà nàng vừa đọc trong một cuốn sách nàng mua của người bán rong. Chuyện kể về một thiếu phụ Do Thái trẻ bị một con quỷ hiếp dâm, rồi sau đó sống với cô ta như vợ chồng. Taibele kể câu chuyện với tất cả chi tiết của nó. Mọi người ngồi túm tụm vào nhau, cầm tay nhau, khạc nhổ như ghê tởm tội lỗi, rồi lại cười, cái cười xuất phát từ sự sợ hãi. Một người nói:

- Sao chị ta lại không dùng bùa để xua nó đi?

Taibele trả lời:

- Không phải là con quỷ nào cũng sợ bùa chú cả.

- Thế sao chị ta lại không đến nhà Giáo trưởng?

- Con quỷ cảnh cáo rằng hắn sẽ bóp cổ chị ta nếu chị ta tiết lộ bí mật.

Một người kêu lên:

- Ôi thật khốn khổ. Cầu xin Thượng Đế che chở chúng con để đừng ai chịu cảnh như thế!.

Một người khác nói:

- Giờ mà về nhà thì tôi sợ quá.

Một người hứa:

- Để tôi đi với.

Trong khi họ đang nói chuyện thì Alchonon một người phụ giáo, tình cờ đi ngang qua. Anh chàng Alchonon này, góa vợ đã năm năm, rất thích trở thành một kẻ pha trò chuyên nghiệp trong các đám cưới. Anh ta vốn nổi danh là một người gàn dỡ, một kẻ ưa đùa cợt, chọc ghẹo. Để giày rách toạc, anh ta đi giày mà như đi chân không, do vậy, bước chân anh ta thật lặng lẽ khi nghe Taibele kể chuyện, anh ta dừng lại lắng nghe. Bóng đêm quá dày đặc, những người đàn bà lại quá say mê câu chuyện, nên chẳng ai trông thấy anh ta. Anh Alchonon này lại là một anh chàng phóng túng, đầy những mưu mẹo dâm đãng. Trong phút chốc anh ta hình thành một kế hoạch tinh quái.

Sau khi đám đàn bà đã ra về hết, Alchonon chui vào vườn Taibele. Anh ta nấp sau một thân cây, nhìn qua cửa sổ. Vừa thấy Taibele tắt đèn đi ngủ, anh ta lẻn ngay vào nhà. Taibele không khóa cửa lớn vì thị trấn này không hề có kẻ cắp. Trong hành lang, anh ta cởi bỏ chiếc áo cũ mòn với cả quần và đứng trần truồng như nhộng. Rồi anh ta nhón chân đi vào giường Taibele.

Đang thiêm thiếp ngủ, bỗng nhiên, nàng thấy một khuôn mặt lù lù trong bóng tối. Nàng kinh hãi đến nỗi không la lên được.

- Ai đó? Nàng run rẩy, thì thào.

Bằng giọng khào khào, Alchonon đáp:

- Taibele đừng có la. Nếu la lên, ta sẽ giết ngươi ngay. Ta là quỷ Hurmizah, kẻ ngự trị bóng tối, mưa gió, sấm sét và dã thú - Ta là con quỷ đã lấy người đàn bà trẻ mà người kể hồi hôm. Vì người kể chuyện quá hấp dẫn như thế, nên từ địa ngục, ta đã nghe lời ngươi, và rất thèm muốn thân xác ngươi. Đừng chống cự vô ích. Những ai không theo ý ta, ta sẽ mang đi sang bên kia Dãy Núi Bóng Tối, đến một vùng hoang dã, nơi không có vết chân người, nơi mà chẳng có dã thú nào dám đến, nơi mà đất bằng sắt, trời bằng đồng. Ta sẽ ném chúng vào gai và lửa, giữa đám rắn rết, bò cạp cho đến khi thịt xương bị nghiền nát thành tro bụi và rồi chúng sẽ mãi mãi đắm chìm trong vực thẳm. Còn nếu ngươi chiều theo ý muốn của ta, chẳng những không ai đụng đến sợi tóc của ngươi mà ta còn ban cho ngươi sự thành công trong mọi việc.

Nghe nói thế, Taibele nằm bất động như muốn ngất xỉu. Trái tim nàng như muốn ngừng đập. Nàng nghĩ cuộc đời nàng sắp chấm dứt. Một lát sau, nàng thu hết can đảm, thì thào:

- Ông muốn gì nơi tôi? Tôi là đàn bà có chồng.

- Chồng ngươi chết rồi. Chính ta đã đi theo tang lễ của hắn. Gã trợ giáo lên giọng: Đúng là ta không thể đến nhà Giáo trưởng để xác nhận và để ngươi tự do tái giá, vì bọn Giáo trưởng đó chả tin gì bọn ta. Vả lại, ta chẳng dám bước qua ngưỡng cửa phòng giáo trưởng đâu. Ta sợ chứ. Nhưng ta không hề nói láo. Chồng ngươi đã chết vì bệnh truyền nhiễm, giờ thì sâu bọ đã gặm hết thịt xương hắn rồi. Mà dù cho hắn có còn sống, ngươi có ăn nằm với ta cũng được, vì luật Shulhan Aruch không áp dụng đối với chúng ta.

Hurmizah - người phụ giáo - tiếp tục thuyết phục, khi thì ngọt ngào, khi thì đe dọa. Nó nhắc đến tên của những thiên thần và những ác quỷ, những ác thú, những con ma cà rồng. Nó quả quyết rằng Asmodeus, vua các loài quỷ, là bác của nó. Còn Tilith, nữ hoàng quỷ thì nhảy múa bằng một chân và lúc nào cũng chiều chuộng nó. Shibtah, con quỷ cái chuyên bắt cóc trẻ con, là kẻ thường làm bánh bằng mỡ của bọn phù thủy và chó mực, và nướng bánh trên những cái lò ở địa ngục cho nó ăn. Nó cứ dài dòng như thế, viện dẫn cả những chuyện ngụ ngôn và tục ngữ dí dỏm đến nỗi cuối cùng Taibele cũng phải phì cười. Nó thề nó đã yêu Taibele từ lâu. Nó tả lại áo quần và khăn choàng mà nàng dùng năm nay cũng như năm trước; kể lại những ý nghĩ thầm kín của nàng khi nàng nhồi bột chuẩn bị cho bữa ăn lễ Sabbath, khi nàng tắm rửa trong chậu, cả khi nàng đi đại tiện và thấy cả những thứ cần thiết của nàng ở gian nhà phụ. Nó cũng nhắc cho nàng nhớ là có buổi sáng, khi thức dậy, nàng thấy có dấu vết bầm trên ngực. Nàng cứ tưởng đó là do ma cắn. Thực ra, đó là dấu vết do môi của con quỷ Hurmizah để lại sau một cái hôn, nó bảo thế.

Một lát sau, con quỷ leo lên giường Taibele thực hiện điều nó muốn. Nó giao hẹn với nàng rằng kể từ nay, nó sẽ đến với nàng hai lần mỗi tuần, vào tối thứ tư và tối lễ Sabbath, là những tối mà bọn vô đạo có quyền đi khắp mọi nơi. Dù thế nó cảnh cáo nàng không được tiết lộ cho bất cứ ai biết chuyện gì đã xảy ra cho nàng, ngay cả nói bóng nói gió cũng không được, nếu không nghe, nàng phải chịu hình phạt thảm khốc. Nó sẽ giựt hết tóc nàng, đâm thủng mắt nàng, cắn đứt rốn nàng. Nó sẽ mang nàng đến một miền hoang vu - nơi đó, bánh mì là phân, nước là máu, và tiếng than khóc, rền rĩ của quỷ vọng lại suốt ngày đêm. Nó buộc Taibele thề độc rằng nàng sẽ giữ bí mật suốt đời. Taibele thấy không còn một lối thoát nào khác. Nàng đặt tay lên đùi thề và làm theo những điều con quỷ dặn.

Trước khi ra về, con quỷ hôn nàng thật lâu, thật đắm đuối. Vì nó là quỷ, không phải là người, nên Taibele đã hôn lại nó, và nước mắt nàng đẫm ướt râu của nó. Dù nó có là quỷ đi nữa, nó cũng đã đối xử với nàng quá tử tế...

Hurmizah đi rồi, Taibele vùi đầu trong gối, khóc thổn thức cho đến sáng.

Minh họa: Nguyễn Đính


Thế là, cứ đêm thứ tư và thứ bảy, Hurmizah lại đến với nàng. Taibele sợ rằng nàng sẽ có thai và cho ra đời một con quỷ có đuôi và sừng - một thứ tiểu quỷ, hoặc là một thằng ngốc. Nhưng Hurmizah hứa bảo đảm cho nàng. Taibele hỏi nó nàng có cần phải đi làm lễ tắm rửa để thanh tẩy sau những ngày ô uế hay không, thì Hurmizah nói rằng những luật tắc liên hệ đến kinh nguyệt không áp dụng đối với những người có quan hệ với quỷ.

Như tục ngữ thường nói: "Thượng đế sẽ bảo vệ chúng ta đối với những gì chúng ta quen thuộc". Taibele cũng thế. Lúc đầu, nàng sợ người khách đêm của nàng làm hại nàng, làm cho nàng phải sủa như chó, hoặc phải uống nước tiểu, hoặc mang đến cho nàng những điều bất hạnh. Nhưng không, nó chỉ vuốt ve nàng, nói bên tai những lời âu yếm, đùa nghịch với nàng. Thỉnh thoảng, nó giả giọng con nít, bập bẹ những điều vô nghĩa khiến nàng phải bật cười. Nó kéo dái tai nàng rồi cắn yêu trên vai nàng khiến buổi sáng thấy còn vết răng trên da. Nó thuyết phục nàng để tóc dài ra và nó cột thành bím. Nó còn dạy nàng bùa chú, kể cho nàng nghe bọn bạn bè quỷ của nó thường cùng nó bay trên những cánh đồng nấm độc, trên những đầm muối, trên những hoang mạc giá lạnh của Biển Băng.

Nó thừa nhận nó có nhiều vợ, nhưng tất cả đều là quỷ cái. Taibele là vợ duy nhất thuộc về loài người của nó. Khi Taibele hỏi tên những bà vợ, nó kể một lô tên: Namah, Machlath, Aff, Chuldah, Zluchah, Nafkah, Cheimah, cả thảy là bảy. Hurmizah mô tả những bà vợ của nó và kể cho Taibele là nó đùa bỡn với họ như thế nào. Thông thường người đàn bà ghen khi chồng mình giao du với người đàn bà khác, nhưng ở đây, có thể ghen với những con quỷ cái không? Hoàn toàn không. Những câu chuyện của Hurmizah lại làm cho Taibele vui thích, khiến nàng cứ hỏi Hurmizah luôn miệng. Thỉnh thoảng, nó lại tiết lộ cho nàng những bí mật mà con người không làm sao biết được, về Thượng Đế, về những thiên thần, về bảy tầng trời. Nó cũng kể cho nàng biết những tội nhân bị hành hạ trong vạc dầu, bị đóng đinh trên giường, bị chôn vùi dưới tuyết như thế nào, và những hắc thần đánh đập tội nhân bằng những cây roi lửa như thế nào.

Hurmizah bảo nàng rằng hình phạt khủng khiếp nhất ở địa ngục là bị thọc lét. Có một tiểu quỷ tên là Lekish. Khi Lekish thọc lét dưới bàn chân và dưới nách của một người đàn bà mang tội thông dâm, tiếng cười của nàng vang vọng khắp nơi, vang đến tận đảo Madagascar.

Bằng cách đó, Hurmizah làm cho Taibele vui suốt đêm. Rồi nàng bắt đầu nhớ nhung khi nó vắng mặt. Những đêm mùa hè bây giờ đâm ra quá ngắn, vì Hurmizah đã ra đi sau khi gà gáy. Ngay cả những đêm mùa đông cũng chẳng còn dài. Sự thật là Taibele đã yêu Hurmizah. Mặc dầu nàng biết rõ là nàng không nên giao tình với một con quỷ, nhưng nàng vẫn đêm ngày đợi chờ con quỷ.

Alchonon góa vợ đã nhiều năm. Nhiều bà mối cũng cố gắng giúp anh ta cưới vợ. Các cô gái được giới thiệu xuất thân từ những gia đình nghèo góa chồng hoặc đã ly hôn, bởi lẽ Alchonon là một anh trợ giáo nghèo. Vả lại, anh ta vốn mang tiếng một kẻ vô tích sự. Thế mà Alchonon từ chối hết, vì theo anh ta, người thì xấu xí, kẻ thì lắm mồm lắm miệng, kẻ lại lôi thôi lếch thếch. Bọn mai mối thắc mắc chín đồng groschen, cái loại trợ giáo như anh ta, một tuần kiếm được có chín đồng mà lại làm ra vẻ kén chọn như thế là thế nào. Làm sao mà một người đàn ông lại sống độc thân lâu như thế được? Nhưng bọn họ đành chịu, chẳng thuyết phục nổi anh ta.

Còn Alchonon thì cứ sống lang thang trong thị trấn - dáng người cao, gầy, bộ râu đỏ rối rắm, khoác chiếc áo sơ mi nhàu nát, rách rưới, cục xương ở cổ trồi lên trụt xuống nơi cuống cổ. Anh ta đợi ông pha trò đám cưới Reb Zekele chết để anh ta thay chân vào đó. Mà cái ông Zekele này lại chẳng chịu chết. Ông vẫn còn giúp vui cho những đám cưới bằng cả một kho vô tận những chuyện hài hước và những bài thơ, y như hồi còn trẻ. Thế là Alchonon đành phải làm công việc trợ giáo của mình, tức là làm thầy bọn trẻ mới bắt đầu đến trường, nhưng rồi chẳng ai giao phó con mình cho anh ta cả. Sáng rồi chiều, anh ta dẫn bọn trẻ đi và về. Còn suốt ngày, anh ta ngồi ở vườn nhà ông Giáo Reb Itchile vót những que gỗ nhọn hay cắt giấy trang trí dùng cho lễ gặt hoặc nặn tượng bằng đất sét. Cách cửa hiệu của Taibele không xa, có một cái giếng, và Alchonon thường đến đó một ngày nhiều bận, kéo lấy một xô nước để uống, làm cho nước chảy tràn cả bộ râu đỏ của anh ta. Những lúc đó, anh ta thường liếc nhìn Taibele. Taibele thì rất thương hại anh ta. Tại sao một người đàn ông lại cứ lang thang mãi một mình như thế? Còn Alchonon lại tự hỏi: "Taibele sẽ đau khổ biết bao nếu cô biết ra sự thật!..."

Alchonon sống trong một căn gác xép, tại nhà của một bà góa già vừa điếc vừa lòa. Bà già thường trách anh ta sao không đi đến nhà nguyện để đọc kinh như những người Do Thái khác. Thường thì sau khi dẫn bọn trẻ về nhà, anh ta đọc kinh chiều vội vàng rồi đi ngủ. Đôi khi bà già tưởng như nghe tiếng người trợ giáo thức dậy nửa đêm và đi đâu đó. Bà hỏi Alchonon đi đâu lang thang đêm hôm như thế, thì anh ta bảo là bà nằm mơ. Bọn đàn bà ngồi lê đôi mách thì đồn đại rằng, cứ đến nửa đêm là Alchonon biến thành con ma sói. Một vài người lại nói rằng anh ta giao hợp với một con tinh. Chẳng thế thì tại sao một người đàn ông lại có thể sống độc thân lâu như thế? Bởi thế, những gia đình giàu có chẳng còn giao con cho anh ta nữa. Bây giờ anh ta chỉ hướng dẫn cho bọn trẻ con nhà nghèo, nên hiếm khi anh ta ăn được thức ăn nóng, và anh ta phải hài lòng với những miếng bánh mì khô.

Alchonon càng lúc càng trở nên gầy ốm. Nhưng bước chân anh ta vẫn còn nhanh nhẹn. Đôi chân cao nghều, nên anh ta bước đi trên đường như người đi chân cà khêu. Chắc là anh ta hay khát nước, nên cứ thấy anh ta xuống giếng hoài. Có khi chỉ để giúp một người lái buôn hay một người nông dân cho ngựa uống nước. Một hôm từ xa Taibele để ý thấy cái áo anh ta rách, nàng bèn nhắn anh ta đến cửa hiệu. Anh ta liếc nhìn nàng, mặt đổi sắc, vẻ sợ hãi:

- Tôi thấy áo anh rách rồi - Taibele nói - Nếu anh muốn tôi sẽ bán chịu cho anh ít mét vải. Sau anh trả dần dần cũng được, mỗi tuần một đồng grivirik thôi.

- Không.

Taibele ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại không? Nếu anh chưa trả kịp, tôi cũng chẳng kéo anh đến nhà ông giáo trưởng đâu. Khi nào có thì trả.

- Không.

Và anh ta vội vã bước ra khỏi cửa hiệu sợ nàng nhận ra giọng nói của mình.

Về mùa hè, đến với Taibele lúc nửa đêm là điều dễ dàng. Alchonon đi qua những con hẽm tối, giữ chặt chiếc áo khoác quanh thân thể trần truồng của mình. Về mùa đông, dù mặc áo quần hay không, đi qua hàng hiên lạnh của nhà Taibele cũng là điều đau khổ. Nhưng tệ nhất là những đêm tuyết rơi đầu mùa. Alchonon sợ nhất là Taibele hay hàng xóm của nàng biết được dấu vết của mình. Anh ta cảm thấy lạnh và bắt đầu húng hắng to. Một đêm, anh ta đi vào giường Taibele với đôi hàm răng đánh lập cập; một lúc lâu, người anh ta vẫn không thể ấm lên được. Sợ Taibele biết được sự thật, anh ta bịa ra điều này điều nọ và xin lỗi nàng. Nhưng Taibele thì lại chẳng tìm hiểu, cũng chẳng muốn tìm hiểu kỹ làm gì. Từ lâu nàng đã khám phá ra rằng một con quỷ cũng có những thói quen và nhược điểm như con người. Hurmizah cũng đổ mồ hôi, cũng tắt hơi, cũng ngáp. Thỉnh thoảng, hơi thở của nó cũng ra mùi hành, mùi tỏi. Thân thể của nó cũng từa tựa như thân thể của chồng nàng: xương xẩu, nhiều lông, có cục xương cổ và một cái lỗ rốn. Có khi Hurmizah vui vẻ, có khi nó cũng bật ra tiếng thở dài. Chân nó chẳng phải là chân ngỗng, mà là chân người, có móng chân. Có lần Taibele hỏi nó ý nghĩa của những điều đó, Hurmizah giải thích:

- Khi kẻ nào trong bọn ta ăn nằm với một người nữa, thì hắn phải biến ra thân thể của một con người. Nếu không nàng ta sẽ chết vì sợ đi chứ!"

Quả thật, Taibele đã quen với nó và yêu nó. Nàng chẳng còn sợ nó một chút nào nữa. Những chuyện nó kể thì chẳng chê vào đâu được, nhưng nàng thường thấy chúng mâu thuẫn với nhau. Giống như những kẻ hay nói dối, nó có trí nhớ kém. Nó đã nói với nàng lúc đầu rằng quỷ thì bất tử. Nhưng có một hôm, nó hỏi nàng:

- Em sẽ làm gì nếu ta chết đi?

- Nhưng quỷ thì đâu có chết?

- Chúng bị chôn xuống hố chứ.

Mùa đông năm đó, thị trấn có bệnh dịch. Những cơn gió chướng từ những dòng sông, những cánh rừng, những đầm lầy thổi đến. Chẳng phải chỉ trẻ con mà người lớn cũng bị sốt. Trời mưa tầm tả. Nước lũ phá vỡ đê. Những cơn gió mạnh đã thổi bay đi một cánh quạt của cái cối xay gió. Đêm thứ tư, khi Hurmizah vào giường, nàng để ý thấy thân thể nó nóng như lửa, nhưng đôi chân lại lạnh như nước đá. Nó run rẩy và rên rỉ. Nó cố gắng làm cho nàng vui bằng những câu chuyện về bọn quỷ cái, nhưng nó quá yếu và không thể ăn nằm với nàng được. Nàng chưa bao giờ thấy nó ở trong tình trạng khốn khổ như thế. Nàng cảm thấy lo âu, phiền muộn. Nàng hỏi:

- Em pha cho anh một ít nước trái cây và sữa nhé?

- Mấy loại đó chẳng thích hợp với bọn anh đâu.

- Khi bệnh các anh làm gì?

- Bọn anh ngứa và bọn anh gãi.

Sau đó thì nó ít đi. Khi hôn nàng hơi thở nó có mùi chua. Nó thường ở lại với Taibele cho đến lúc gà gáy, nhưng lần này nó về sớm. Taibele nằm im lặng, lắng nghe nó bước đi ngoài hiên. Nó nói với nàng rằng nó có thể bay khỏi cửa sổ ngay khi cửa đóng và khóa. Nhưng lần này nàng nghe tiếng cửa kêu rít. Taibele biết rằng cầu nguyện cho bầy quỷ là có tội. Người ta phải nguyền rủa chúng, phải quên hẳn chúng đi. Nhưng nàng lại cầu xin Thượng đế phù hộ cho Hurmizah. Nàng thốt lên một cách thống thiết: "Có quá nhiều quỷ như thế, xin hãy cho tôi thêm một con quỷ nữa..."

Đến đêm lễ Sabbath sau, Taibele đợi chờ Hurmizah một cách tuyệt vọng cho đến sáng. Tự đáy lòng, nàng kêu gọi hắn đến, miệng thì đọc những câu thần chú mà hắn dạy - nhưng hàng hiên vẫn lặng lẽ như tờ. Taibele nằm im như tê cóng. Có lần Hurmizah đã tiên đoán rằng sau một trăm năm, nàng sẽ tái sinh thành một công chúa và hắn, con quỷ Hurmizah, sẽ cưới nàng và mang nàng đến cung điện của Bahemith, vợ của Esau. Nhưng giờ đây, có lẽ hắn đã bị bệnh, nằm ở một nơi nào đó - một con quỷ bơ vơ, một kẻ mồ côi cô độc, không cha không mẹ, chẳng có một người vợ trung thành chăm sóc. Taibele nhớ lại trong lần gặp nàng cuối cùng, hơi thở hắn khò khè như cưa gỗ. Khi hắn thở ra, nàng nghe như có tiếng rít. Từ chúa nhật đến thứ tư, nàng kiên nhẫn chờ đến khi nghe tiếng đồng hồ báo hiệu nửa đêm. Nhưng đêm cứ trôi đi mà Hurmizah chẳng thấy đến. Taibele nằm quay mặt vào tường.

Một ngày bắt đầu, u ám như buổi chiều về. Bụi tuyết mịn màng rơi xuống từ bầu trời ảm đạm. Khói quanh quẩn trên các ống khói, không bay lên được, vương vãi trên các mái nhà trông như những tấm khăn rách nát. Chó sủa, sau một đêm thao thức dày vò, Taibele chẳng còn sức đi đến cửa hiệu. Tuy nhiên, nàng cũng thay áo quần đi ra ngoài. Nàng thấy có bốn người hộ tang đang khiêng một cái cáng. Từ dưới tấm vải phủ đẫm tuyết, thò ra đôi chân xanh xao của một xác chết. Chỉ có người bảo vệ nghĩa trang đi theo người chết. Taibele hỏi người chết đó là ai. Người bảo vệ nghĩa trang trả lời:

- Alchonon, anh trợ giáo.

Một ý tưởng kỳ lạ đến với Taibele. Tiễn đưa Alchonon, con người vô tích sự đã sống cô đơn và chết cô đơn, đến nơi an nghỉ cuối cùng. Ai sẽ đến cửa hiệu hôm nay? Nhưng mà nàng chăm sóc công việc để làm gì nhỉ? Taibele đã mất hết mọi thứ trên đời rồi. Ít nhất nàng cũng nên làm một việc tốt. Nàng đi theo người chết trên con đường dài dẫn đến nghĩa trang. Nàng đứng đợi khi những người đào huyệt cào tuyết và đào một cái huyệt trong lòng đất giá lạnh. Họ cuốn Alchonon trong tấm khăn choàng lễ và cái mũ trùm đầu, nhét giữa những ngón tay một nhánh sim để anh ta dùng đào một lối đi đến đất thánh đợi thần Messiah đến. Mộ được lấp lại và những người đào huyệt đọc kinh Kaddiah. Một tiếng than bật ra từ miệng Taibele. Anh chàng Alchonon đã sống một cuộc đời cô đơn như nàng. Cũng như nàng, anh ta chẳng còn ai thân thuộc. Vâng, Alchonon, người trợ giáo, đã nhảy vũ khúc cuối cùng của cuộc đời mình. Theo lời Hurmizah, Taibele biết rằng người chết không đi thẳng đến thiên đàng. Mỗi một tội lỗi tạo ra một con quỷ và những con quỷ sẽ là những đứa con của con người khi hắn chết đi. Chúng đến để đòi chia phần. Chúng gọi những người chết là cha và kéo hắn đi ngang qua cánh rừng, qua sa mạc cho đến khi xong hình phạt, sau đó, hắn sẵn sàng được thanh tẩy ở địa ngục...

Giờ thì Taibele sống một mình như bị ruồng bỏ, vừa bởi một kẻ khổ hạnh, vừa bởi một con quỷ. Nàng già đi rất nhanh, ở nàng, không còn lại dấu tích gì của quá khứ, ngoài điều bí mật chẳng bao giờ được nói ra, mà có nói ra, cũng chẳng ai tin. Có những điều bí mật phải chôn kín tận đáy lòng cho đến lúc lìa đời. Chỉ còn tiếng thì thầm của những cây dương liễu, tiếng vang của đá và những tấm mộ bia lặng lẽ trò chuyện bằng ngôn ngữ riêng của chúng. Một ngày nào đó, người chết sẽ sống dậy, nhưng những điều bí mật của họ sẽ tồn tại với đấng toàn năng và lời phán quyết của ngài cho đến ngày tận thế.

6-1988
TRẦN DOÃN NHO dịch
(theo bản tiếng Anh của MIRRA GINSBERG)
(TCSH41/02&03-1990)





 

Các bài mới
Các bài đã đăng