Tạp chí Sông Hương - Số 441 (T.11-25)
Chuyện nghề - cộng tác viên
15:19 | 28/11/2025

ĐÔNG SƠN HỒ HỮU VINH

Tôi cho rằng cộng tác viên trong lĩnh vực xuất bản - những người viết ra sách, là nền tảng của nghề xuất bản; có bột mới gột nên hồ; có nhà nghiên cứu văn hóa, người sáng tác văn chương nổi tiếng mới có tác phẩm tốt.

Chuyện nghề - cộng tác viên
Bìa Tạp chí Huế xưa & nay - Ảnh: tư liệu

Khi bước chân vào nghề tôi rất chú trọng đến trực tiếp hay là gián tiếp thông qua trung gian để kết nối với cộng tác viên đã có công trình xuất bản, cộng tác viên tiềm năng; qua những gì tôi biết được thì tôi muốn hướng về văn hóa Huế; xuất bản về đề tài này trước năm 1975 đã nhiều; sau năm 1981, khi ra đời Nxb. Thuận Hóa thì sách về lịch sử, văn hóa Huế ngày càng nhiều.

Trong gần 28 năm tôi hoạt động trong lĩnh vực xuất bản thì có 13 năm là biên tập viên, số lượng bản thảo biên tập được xuất bản cũng không nhiều, nhưng có những cộng tác viên gắn với công trình của họ thì nhớ, đó là những dấu ấn quan trọng. Tôi muốn viết đôi dòng về PGS. TS. Chu Quang Trứ, GS. Trần Quốc Vượng và nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu, cùng những tác phẩm của họ mà tôi hân hạnh là độc giả đầu tiên.

Đầu năm 1994, tôi suy nghĩ nhiều để chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp. Như đã viết, tôi hướng về văn hóa Huế, mà như vậy thì rộng và khó đối với tôi; kiến thức nông cạn về đề tài này. Tôi hướng đến phạm vi hẹp hơn, xuất bản sách về mỹ thuật Huế; trước năm 1975 có học giả miền Bắc nhìn nhận phiến diện về mỹ thật nhà Nguyễn. Tôi chọn đề tài này cũng bởi tính thời sự, Huế được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1993 với danh hiệu Quần thể di tích Cố đô Huế. Đây là di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam.

Xác định như vậy, tôi lập một danh sách những tác giả có công trình đã công bố về mỹ thuật Huế, để tiếp cận hỏi han cụ thể. Ở Huế có họa sỹ Phan Thanh Bình, sau này là Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế. Qua họa sỹ Phan Thanh Bình tôi nhờ anh giới thiệu cho các nhà nghiên cứu ở Hà Nội, anh có thời gian học hành ngoài đó. Anh giới thiệu PGS. TS. Chu Quang Trứ; sau này anh cho biết là rất cân nhắc khi quyết định như vậy và nhận thấy là quan hệ và hiệu quả không chỉ dừng lại ở chuyện hỏi han liên quan đến luận văn của tôi.

Tôi xưng hô thầy trò với PGS. TS. Chu Quang Trứ. Ra trường, tôi viết thư cảm ơn thầy đã cho tôi hiểu thêm đằng sau trang sách; mong muốn thầy cộng tác với Nxb. Thuận Hóa và Tạp chí Huế Xưa và Nay.

Thầy có thư trả lời, cùng thêm bài viết về mỹ thuật Huế dưới dạng phỏng vấn những buổi thầy trao đổi với tôi. Bài đó được đăng trên Tạp chí Huế Xưa và Nay. Khởi đầu một quan hệ mới giữa thầy với tôi như vậy là tốt đẹp.

Thầy đã viết nhiều sách, nhưng cùng với các tác giả khác, tôi muốn thầy có sách riêng của mình. Bản thảo đầu tiên thầy gửi về chủ đề tín ngưỡng, tôi biên tập, vẽ bìa, trình bày nội dung, morasse; sách xuất bản, thầy gửi vào cả trang lỗi morasse; tác phẩm đầu tiên của thầy mà lỗi nhiều; tôi thật sự áy náy.

Rồi lần lượt những cuốn sách của thầy tôi biên tập ra đời ở Nxb. Thuận Hóa; trong đó có Mỹ thuật Lý - Trần, Mỹ thuật Phật giáo, tôi làm luôn bìa, trình bày nội dung, morasse.

Sau khi tôi rời khỏi Nxb. Thuận Hóa thì hầu hết sách của thầy tái bản, có thêm những cuốn mới; nhưng Nxb. Thuận Hóa không đứng tên.

Thầy xem tôi như người nhà; có dịp ra Hà Nội tôi đều đến thăm thầy và gia đình. Khi thầy mất, Tạp chí Huế Xưa và Nay có đăng tin buồn. Từ năm 2003 - 2005 tôi học ở Hà Nội, vẫn thường đến thăm vợ thầy.

Có những chuyện tưởng chừng riêng rẽ nhưng lại có liên quan với nhau; tôi muốn viết về GS. Trần Quốc Vượng (1934 - 2005) với một bài báo, một cuốn sách mà tôi là người tiếp cận, góp phần xuất bản đến với công chúng.

Dịp sau Tết Nguyên đán Bính Tý - 1996 bằng nguồn tin từ đâu thì tôi không nhớ, nhưng tôi biết Giáo sư đang ở Huế, tại khách sạn Thành Nội. Tôi mượn xe Honda chị Trần Thùy Mai, khi đó tôi vẫn xe đạp đi làm, đến gặp Giáo sư. Tôi đường đột như thế mà được việc, gặp được ông; tự giới thiệu sơ qua Nxb. Thuận Hóa, Tạp chí Huế Xưa và Nay và mong muốn ông cộng tác.

Tôi, một người mới vào nghề, biên tập viên, không chức tước đề nghị như thế, ông không nói từ chối mà cũng không trả lời đồng ý; ông bảo rằng chờ xem, rồi cho biết là chiều nay sẽ về Thuận An xem lễ hội cầu ngư, bảo tôi nếu tiện thì đi cùng. Tôi rủ thêm anh Trần Huy Thanh ở Phòng Văn hóa - Thông tin thành phố Huế, anh có xe Honda, cũng tiện chở tôi luôn. Chuyến đi đó về Thuận An tôi gặp ông Phan Thuận An, ông mời Giáo sư, anh Thanh và tôi nghỉ đêm ở nhà người anh ruột.

Lễ cầu ngư diễn ra từ chiều đến đêm, 1, 2 giờ sáng mai lại có lễ. Tôi thì không tham dự đủ lễ còn Giáo sư thì dự đầy đủ.

Chia tay ở Thuận An, Giáo sư hẹn tôi vào chiều đến khách sạn. Khi tôi đến thì ông cũng vừa viết xong, đó là bài về lễ cầu ngư mà ông vừa tham dự; đưa cho tôi, ông nói: Tớ chỉ có ngần ấy thôi.

Một chốc thì có phóng viên của một tờ báo, tôi không nhớ tên, đến gặp Giáo sư xin phỏng vấn. Giáo sư chỉ vào tôi nói: Tớ đưa hết cho ông Hồ Hữu Vinh rồi, hẹn ông dịp khác.

Sau đó bài của Giáo sư được đăng ở Tạp chí Huế Xưa và Nay; có ảnh bìa là lễ hội cầu ngư của anh Phạm Bá Thịnh. Đó là bài đầu tiên và có lẽ là duy nhất của Giáo sư đăng ở Huế Xưa và Nay.

Tạp chí phát hành thì đến phần trả nhuận bút. Sẵn dịp tôi ra Hà Nội, tìm gặp Giáo sư để trao tận tay; thời chưa có điện thoại di động cũng năm lần bảy lượt mới hẹn được. Khi gặp thì Giáo sư đang uống bia hơi với những người bạn mà khi giới thiệu tôi cũng biết qua đọc sách của họ. Giáo sư giới thiệu vắt tắt tôi với nhóm bạn của ông. Tôi trao nhuận bút, số tiền ít ỏi, không biết quy ra bia thì được mấy cốc. Qua cuộc nhậu tôi được quen biết thêm mấy nhà nghiên cứu Hà thành, mở ra những mối quan hệ mới.

Năm 2006, sau khi Giáo sư Trần Quốc Vượng qua đời mấy tháng, Nxb. Thuận Hóa nhận được bản thảo của Giáo sư, đó là tập hợp những bài viết khá dày dặn. Biết được sự quen biết của tôi với Giáo sư, Giám đốc giao cho tôi thụ lý chồng bản thảo đó.

Việc đầu tiên là tôi đọc lướt qua một lượt tất cả các bài viết để có một ý niệm tổng quát; sau đó phân chia các bài viết theo địa lý - văn hóa - thời gian, việc này mất khá nhiều thời gian; rồi tiến hành biên tập từng bài; mỗi bài lại phải đối chiếu với các bài khác khi có sự giao thoa về chủ đề, việc này cũng phải tỉ mẩn, phát hiện sự trùng lặp, khi các bài viết nằm chung trong tổng thể một cuốn sách.

Trong quá trình biên tập, bác sĩ Nguyễn Anh Huy (Huy tiền cổ) biết chuyện, Huy cung cấp thêm mấy bài nữa, nói thêm cho tôi hay về tiểu sử của Giáo sư.

Bố cục bản thảo chia thành hai tập, tập một về miền Bắc trước năm 1975, tập hai mỏng hơn về miền Nam sau năm 1975.

Sau khi biên tập xong tôi đặt tên sách là Dặm dài đất nước - Những vùng đất, con người, tâm thức người Việt; viết Lời nhà xuất bản; thường sách của Nxb. Thuận Hóa thiếu lời nhà xuất bản.

Tôi không nhớ là đã mất thời gian bao lâu để biên tập xong Dặm dài đất nước.

Sau khi tôi rời Nxb. Thuận Hóa thì Dặm dài đất nước được tái bản; sở dĩ tôi biết tái bản vì báo đăng có sai sót nhiều so với bản đầu tiên.

Vậy đó, hai lần được biên tập tác phẩm của cùng một tác giả. Lần đầu là bài báo; mười năm sau là bản thảo cho một cuốn sách, nhưng tác giả không còn, có nghĩa là không có trao đổi với tác giả khi có vấn đề liên quan; mọi chuyện liên quan đến nội dung biên tập viên phải tự quyết định, khác với nhiều cuốn sách tôi biên tập.

Cộng tác viên thứ ba là nhà nghiên cứu Lê Nguyễn Lưu; ông sinh năm 1937, nguyên quán làng Tả Phan, xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông có thời gian dạy học, rồi chuyển sang làm chuyên viên ở Phòng Văn hóa - Thông tin thành phố Huế.

Nhóm cộng tác viên ở Phòng Văn hóa - Thông tin thành phố Huế còn có anh Lê Văn Thuyên (sau này có làm Tổng Biên tập Tạp chí Huế Xưa và Nay), anh Huỳnh Đình Kết, anh Trần Huy Thanh. Tôi thân thiết với nhóm này như anh em.

Có lẽ tôi quen biết ông Lê Nguyễn Lưu là qua các bài viết của ông đăng trên Tạp chí Huế Xưa và Nay.

Năm 1995, tôi biết được có một bản thảo của ông cùng với vài người nữa dịch và chú giải, Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế; bản thảo hoàn thành đã lâu mà không có kinh phí để xuất bản. Qua họa sỹ Phan Thanh Bình, tôi quen biết Họa sỹ Phan Cẩm Thượng - lúc này đang làm cho SIDA (Swedish International Development Cooperation Agency - Tổ chức hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển); nhân ra Hà Nội tôi chuyển hồ sơ, bản thảo cho họa sỹ Phan Cẩm Thượng, để xin SIDA tài trợ kinh phí xuất bản; nhờ đó mà Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế ra mắt bạn đọc. Đây là một trong ít cuốn sách của Nxb. Thuận Hóa được các tổ chức nước ngoài tài trợ kinh phí xuất bản.

Có thêm vài cuốn sách nữa của ông Lê Nguyễn Lưu mà tôi biên tập: Vua Minh Mạng và thái y viện triều Nguyễn (viết chung với ông Phan Tấn Tô), Văn hóa Huế xưa (3 tập), Đường thi tuyển dịch (2 tập),...

Về cuốn Đường thi tuyển dịch là trường hợp đặc biệt. Một lần đến nhà ông Lê Nguyễn Lưu trao đổi công việc biên tập, tôi xin phép được xem tủ sách của ông trong thư phòng; có rất nhiều sách, xếp ngay ngắn. Tôi chú ý đến gáy sách bìa màu vàng, Đường thi chân dung và tuyển dịch, kiểu chữ viết lạ. Lấy ra xem thì đó là mấy tập bản thảo, được trình bày, đóng xén như sách. Tôi mượn mấy tập đó đem về, rồi đưa vào đăng ký kế hoạch đề tài xuất bản; liên hệ với nhà đầu tư để liên kết xuất bản.

Nhà đầu tư là ông Lê Nguyên Đại ở Sài Gòn; ông là số ít trong những người làm xuất bản chuyên đầu tư vào đề tài có kinh phí lớn, thị trường kén chọn; đã hợp tác với Nxb. Thuận Hóa cho ra đời những bộ sách đồ sộ, như Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Những người bạn Cố đô Huế.

Năm 1996 tôi mang bản thảo vào Sài Gòn giao cho ông Lê Nguyên Đại; năm 1997 thì ra sách. Đến năm 2007 Đường thi tuyển dịch được tái bản lần đầu, rồi tôi không biết có tái bản nữa hay không.

Cách đây mấy năm tôi đến nhà thăm, hỏi han công việc của ông Lê Nguyễn Lưu; ghi một danh mục bản thảo đã hoàn thành của ông, rồi gửi cho ông Lê Nguyên Đại để đầu tư xuất bản. Ông Lê Nguyên Đại chọn đề tài Văn hóa Huế xưa 6 tập, mỗi tập có 2 phần, đồ sộ. Tôi đã làm trung gian để hai bên ký kết hợp đồng xuất bản thành công; đồng thời ông Lê Nguyên Đại nhờ tôi biên tập luôn, phải đến hai tháng mới xong.

Khi viết những dòng này tôi có hỏi thăm ông Lê Nguyễn Lưu qua người con trai là anh Lê Minh Khiêm, anh cho biết ông vẫn say mê nghiên cứu và viết. 89 tuổi, ông Lê Nguyễn Lưu vẫn như con tằm nhả tơ, cho đời những trang sách.

Trên đây là ba cộng tác viên - nhà nghiên cứu trong số nhiều người tôi đã từng biên tập sách của họ; với tâm niệm rằng nghề biên tập khi đọc bản thảo như chẻ sợi tóc làm tư, nhưng là cố gắng để hoàn thiện, là người đọc đầu tiên có trách nhiệm, sao cho khi sách đến với độc giả thì đó là một tác phẩm hữu ích.

Vỹ Dạ, tháng 9 năm 2025
Đ.S.H.H.V
(TCSH441/11-2025)

 

 

Các bài đã đăng
Chim bay về tổ (25/11/2025)
Chùm thơ Lê Nhi (25/11/2025)