Tạp chí Sông Hương - Số 442 (T.12-25)
Khe núi có tiếng khóc…
14:40 | 22/12/2025

NGUYỄN NGỌC LỢI

Vùng này núi non trùng điệp, núi liền núi kéo dài theo hướng Bắc - Nam, mở rộng theo Đông - Tây. Từ đồng bằng nhìn lên thấy tất cả chìm trong mây mù, chìm xa tít tắp. Đã có núi hẳn sẽ có khe. Núi cao khe sẽ sâu, và sẽ là luồng hút gió. Khe càng hẹp gió càng mạnh. Thành thử khe núi hẹp có tiếng khóc đàn bà…

Khe núi có tiếng khóc…
Minh họa: PHAN THANH BÌNH

Từ khi đường lớn mở đè lên từng đoạn đường chiến lược chạy qua vùng này, và khi rừng già không còn thì nơi đây mất dần sự vắng vẻ. Dân vùng dưới và cả người nơi xa đến lập nên những đoạn phố ngắn làm dịch vụ. Những cây xăng, những nhà nghỉ, những quán ăn phục vụ cánh lái xe, ngày ngày khá đông khách. Tôi có anh bạn lính thời chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc. Ra quân, về quê cưới vợ, từ vùng dưới sau mấy năm anh lên đó nhận đất trồng rừng và lập nên một trang trại, làm ăn khá phát đạt. Một lần về thăm theo lời khẩn khoản của anh và nghe anh kể chuyện đàn bà khóc trong khe núi sau nhà khiến tôi thấy lạ.

Có tiếng khóc đàn bà trong hẻm núi mỗi khi mưa gió như lời bạn tôi kể là làm sao, là do đâu? Vì thắc mắc ấy mà tôi quyết định ở lại chơi với bạn mấy ngày nữa. Và đêm đó mưa. Tầm chín giờ, bạn kéo tôi ra bộ bàn ghế bằng gốc cây được chạm trổ, đánh bóng, đặt nơi góc sân có mái che, tay anh cầm theo chai rượu với đĩa lạc rang… Sáng ra, nghe tôi bảo muốn vào khe núi đó, bạn tôi hào hứng. Mình cũng đang định rủ ông. Nửa buổi, trời đã tạnh mưa nhưng cỏ cây hai bên đường còn sũng nước. Bạn kéo tôi ra đường, ghé vào một quán mua hai chiếc võng sợi cước, mấy ổ bánh mì, hai cây dò và hai chai nước.

- Chưa biết đi bao lâu, mua đi cho chắc. - Bạn tôi nói khi quay ra. Chúng tôi hăm hở bước.

Lối vào khe núi là một đoạn đường chiến lược cũ, hẹp, lổn nhổn đá và thấp chìm lút giữa những bụi cây cỏ um tùm. Chân mang giày vải, chúng tôi lựa chỗ tránh những vũng nước. Đi tiếp chừng năm bảy trăm mét nữa, trước mặt mở ra một vùng thoáng đãng và nhấp nhô những dải đồi thấp. Bên phải vẫn là dãy núi từ đường lớn kéo vào rồi vòng lên ôm lấy thung lũng trước mặt. Dãy núi bên trái thấp hơn kéo dài dích dắc ra xa tít. Chúng tôi đi trên con đường đã mờ dần dấu chân. Bạn tôi đưa tay chỉ về hướng xa xa:

- Cua chữ Z trên kia. Cái trọng điểm tốn không biết bao nhiêu xe, bao nhiêu máu của bộ đội và thanh niên xung phong.

Ồ, cua chữ Z. Trọng điểm nổi tiếng ác liệt trên tuyến vận tải chiến lược mà tôi từng nghe, từng đọc trên báo chí, đọc trên nhiều trang văn viết về thời chống Mỹ là đây sao. Nếu thế, nơi này, nơi chúng tôi đang đứng, mấy chục năm trước chắc hẳn bom đạn cày xới. Và để bảo vệ con đèo, bảo vệ trọng điểm cho con đèo thông suốt, trận địa cao xạ chỉ có thể đặt ở đây. Mạn Bắc và Đông Bắc, hướng 1 và 14 có dãy núi chắn sau lưng. Các hướng còn lại núi thấp hơn, pháo sẽ tập trung bên này đón chúng nó bổ nhào. Là lính cao xạ trên biên giới phía Bắc, tôi nghĩ vậy. Tôi ngoảnh nhìn sang dãy núi bên phải và chợt chú ý đến một ngọn đồi tách ra đứng độc lập. Đỉnh đồi nhô lên một mỏm lèn đá. Đỉnh mỏm đá khá bằng phẳng, vài thân cây cụt ngọn nhô cao chĩa hẳn lên nền trời.

Trưa đó, hai chúng tôi lần xuống một khe nhỏ có dòng nước trong xanh chảy âm thầm dưới tán cây rừng. Cây rừng chỉ còn ở hai bờ suối. Còn lại, dọc theo những đoạn đường bỏ hoang với đôi bãi cỏ hẹp, toàn bộ các sườn đồi, các dãy núi đều đã được phủ kín keo, tràm. Keo tràm tốt rợp, đôi ba sườn đồi trắng hoác do rừng trồng mới thu hoạch nên được làm đất để trồng mới.

- Ông có chút rừng nào ở đây không? - Tôi hỏi bạn khi cả hai đã ngồi xuống tảng đá khá sạch sẽ bên một vũng nước xanh trong.

- Không! - Bạn tôi trả lời. - Khi mình lên thì các diện tích rừng ở đây đã có chủ. Hai héc ta kia của mình là được người ta nhượng lại thôi. Vả lại trồng rừng, làm giàu từ trồng keo tràm cũng vất vả lắm. Mình không đủ sức.

Nắng đã chói trên đỉnh đầu. Lòng khe hẹp quẩn gió nóng hầm hập. Và không gian lặng phắc, chẳng hề nghe một âm thanh nào khác ngoài tiếng nước róc rách luồn trong khe đá.

Rửa qua mặt mũi, chân tay, chúng tôi giở túi lấy đồ ăn. Bữa trưa đơn giản mà khá ngon miệng vì đói. Ăn uống xong, chúng tôi tìm cây căng võng để chợp mắt. Nóng quá không ngủ được, trong đầu tôi cứ lảng vảng câu hỏi tại sao có tiếng khóc đàn bà ở đây?

Bẵng đi mấy tháng, những lởn vởn trong đầu tôi về chuyến đi ấy cũng mờ dần. Chung cư chỗ tôi ở có nhóm hưu trí toàn cựu chiến binh rất hợp nhau. Chúng tôi ngày ngày tụ tập chơi cầu lông, cờ tướng, sáng sáng gọi nhau ăn sáng, cà phê chuyện trên trời, dưới bể.

Gần chung cư chúng tôi có một hẻm ngắn đông đúc người qua lại. Quán cà phê bà Thảo ở nhà số 3 đầu hẻm. Ngôi nhà hai tầng cũ kỹ có khoảng sân phía sau xanh um bởi mấy khóm trúc quân tử, mấy giò lan cùng giàn hoa lý và mấy khóm nhài là nơi chúng tôi thường tụ tập. Bà Thảo có khuôn mặt nhẹ nhõm, dễ chịu. Tuổi khá lớn, chừng ngoài 70 nhưng lưng bà vẫn thẳng, đi đứng còn khá nhanh nhẹn. Riêng tóc bà có phần mỏng, thưa và lốm đốm bạc. Bà bảo vì sốt rét từ ngày ở Trường Sơn. Con cái ra riêng hết, vợ chồng già ở với nhau chăm sóc nhau. Ông bà mở quán cà phê kiếm thêm. Riêng lương hưu đã đủ sống, mở quán để có thêm bạn bè đến nói chuyện cho qua những ngày tháng cuối đời. Sáng sáng ông dậy cắm nước, bà soạn sửa. Có khách, bà đứng quầy pha, ông bưng bê. Khách đi, ông lau bàn, bê tách chén đi rửa. Chúng tôi vừa nhâm nhi từng ngụm cà phê đặc sánh, thơm phức vừa nhìn cảnh ông bà giúp nhau công việc mà thấy ấm lòng. Đến tuổi này, ông bà sống được với nhau như thế này là hạnh phúc lắm rồi.

Quán bà Thảo không mấy đông, chủ yếu là khách quen. Ngày nghỉ hay ngày thường cũng tầm hai ba chục người đến. Khoảng tám giờ trở đi là vãn khách. Ngồi lại lâu hơn chỉ có tốp chúng tôi.

Cái biển “Cà phê bà Thảo” được gắn đầu hẻm nhỏ nhắn, khiêm nhường đã thành thương hiệu tin cậy của chúng tôi. Mấy bộ bàn ghế nhỏ áp sát những khóm trúc, phía trên lủng lẳng mấy giò lan hồ điệp. Ngay bậc thềm tầng trệt là quầy pha cà phê nơi bà Thảo luôn tay làm việc. Một không gian ấm cúng cho những câu chuyện bạn già. Chúng tôi gọi bà là chị. Bà gọi chúng tôi lúc thì các ông, cũng có lúc bà gọi chúng tôi là các cậu, các chú. Bà Thảo quê đâu dưới Nam Định. Chồng bà người ngay khu phố này, là lính lái xe. Chuyện ông bà gặp nhau trong Trường Sơn, nghe bà kể sơ qua tôi hình dung có thể viết thành tiểu thuyết. Nhưng thôi, chuyện tình của bà hãy để dành đó. Tôi muốn nói tới chuyện khác. Chuyện này có liên quan tới cái khe núi có tiếng khóc mà tôi đã kể từ đầu.

Hôm đó, sau mấy hôm vắng bà, chúng tôi vào thì gặp bà đứng đó. Chưa kịp ngồi, tôi hỏi:

- Mấy hôm rồi chị đi đâu thì phải?

- Vâng! Tôi vừa đi Quảng Trị về. - Giọng bà Thảo thật vui. Vẻ mặt bà dãn ra, ánh mắt hấp háy. - Tôi vừa làm được một việc. Cái việc mà suốt mấy chục năm cứ như cái dằm thúc nhói trong lòng cậu ạ.

Nghe giọng nói vui vẻ, tôi biết câu chuyện của bà sẽ còn dài. Tôi im lặng cùng mấy ông trong nhóm ngồi xuống bộ bàn ghế trong góc sân, chỗ quen của chúng tôi.

Quen với việc chúng tôi uống gì. Chế nước sôi vào bốn cái phin, bà tự tay bưng đến bàn chúng tôi rồi bà quay lại quầy. Đã thêm mấy khách nữa bước vào. Bà tiếp tục pha cà phê bưng đến cho khách. Chúng tôi thong thả ngồi đợi, từng giọt nâu đen đặc sánh nhỏ xuống, nhỏ xuống. Thế rồi quán cũng vãn, chỉ còn vài người. Rồi họ cũng đứng dậy bước ra. Như chỉ chờ có thế, bà Thảo bước đến kéo ghế ngồi cùng chúng tôi.

- Các chú cũng từng là lính, hẳn biết tình đồng đội, nhất là đồng đội trong chiến tranh nó thiêng liêng như thế nào. - Bà thong thả nói.

Biết câu chuyện sẽ rất dài, chúng tôi nhấp cà phê rồi im lặng chờ đợi.

Sau đây là câu chuyện của bà.

Dạo đó là đầu năm 1972, chiến trường đang vào hồi ác liệt. Tuyến đường Trường Sơn, tuyến vận tải chiến lược của ta bị địch đánh phá dữ dội. Các trọng điểm không lúc nào ngớt tiếng máy bay địch gầm rú ném bom, bắn phá. Đại đội công binh của bà được điều vào cắm chốt gần cua chữ Z làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông. Công việc hàng ngày của họ là chặt cây lát nền đường, san lấp hố bom, cứu xe cứu hàng, cứu người khi bị máy bay địch đánh phá... Lán tiểu đội bà áp sát chân một dãy lèn đá. Sáng sáng ăn xong họ đi làm theo công việc trong ngày. Hôm thì chặt cây vác ra đường, hôm thì lấp hố bom. Có những tối cả tiểu đội lăn ra cứu xe, cứu hàng, cáng thương binh ra trạm phẫu cách đó ba bốn cây số. Nhiều hôm mãi tận khuya mới được ăn cơm. Con gái ở với nhau giữa rừng nên việc sinh hoạt rất thoải mái. Gặp ngày đường thông suốt, không xảy ra chuyện gì là chiều đó vui nổ trời. Tất cả thả cuốc xẻng rồi ào nhau xuống suối. Mà các chú biết không. Rừng già Trường Sơn có những con suối đẹp tuyệt. Nước ăm ắp, trong mát và sạch vô cùng. Áo quần dài bê bết bùn đất đồng loạt cởi ra. Mặt nước loang loáng những thân hình nồng nỗng. Kể đến đây da mặt bà có chút ửng đỏ. Cái tuổi 17, 18 da thịt con gái sao mà đẹp thế. “Cũng là con gái nhưng tôi ngắm chúng nó, ngắm mãi vẫn không biết chán các chú à”. Lúc đó bà là tiểu đội trưởng, lớn tuổi nhất. Và ít tuổi nhất là Tâm. Tiểu đội bà Thảo cô nào cũng tốt, cũng dễ thương, nhưng bà thương Tâm nhất. Tình cảm dành cho Tâm cứ chan chứa trong lòng, nhiều lúc bà không hiểu vì sao. “Con bé 17 tuổi, bỏ dở lớp 9 xin đi bộ đội, cao dong dỏng, tóc dài chấm mông có khuôn mặt xinh xắn. Nó không đẹp sắc sảo nhưng từ thân hình, từ khuôn mặt, và nhất là mỗi lúc nó cười toát lên vẻ dịu dàng rất đáng yêu.” Nhỏ tuổi nhất nhưng trong công việc Tâm không chịu thua một ai. Nhiệm vụ gì, cho dù nguy hiểm Tâm cũng không nề hà. Ngoài ra Tâm còn biết săn sóc mọi người từ dọn dẹp, khâu vá, nấu nước xông, bưng nước, giặt giũ hộ, nắn bóp chân tay cho ai đó kêu mệt, kêu mỏi. Tâm được chị em thương và quý mến vô cùng.

- Một hôm nhìn nó tôi bất giác nghĩ đến em trai mình. Bà Thảo nói rồi chỉ:

- Cậu ấy đấy.

Bà Thảo đưa tay chỉ sang góc bên kia, người đàn ông tóc hoa râm đang ngồi với chồng bà. Ra chừng muốn gọi nhưng thấy hai người bên kia đang say sưa nên bà lại thôi. Và bà quay lại với chúng tôi. Dạo đó cậu Tân đang học năm thứ hai Đại học Sư phạm. Tôi xung phong đi bộ đội là cũng vì muốn cậu ấy yên ổn học hành. Một tối, sau khi đã lên sạp nằm, bà Thảo bật nói với Tâm đang nằm cạnh. Tâm này... Dạ. Làm em dâu chị nhé. Em trai chị đang học Đại học Sư phạm, sau này sẽ là thầy giáo đấy. Nói xong, bà kéo Tâm áp sát vào mình. Tâm ngoan ngoãn dịch sát người bà. Toàn thân con bé rung lên các ông ạ. Con bé rúc đầu vào ngực tôi, tay phải quàng lên hông tôi, siết nhẹ. Và Tâm nói một câu khiến tôi rùng mình: “Biết còn sống mà về không hả chị?” Và tôi còn rùng mình hơn khi thấy ngực mình ướt những giọt nước mắt của cô ấy. Sao con bé lại nhạy cảm thế chứ? Mấy lần đi cứu xe cứu hàng, tải thương, tận mắt nhìn máu me, những thân hình nát bấy khiến con bé sợ. Sợ nhưng vẫn gồng mình, cắn răng cùng chị em làm nhiệm vụ.

Cà phê trong ly chúng tôi đã cạn. Câu chuyện bà Thảo kể còn dở dang nên chúng tôi chưa ai muốn đứng dậy. Thấy thế, chồng bà pha ấm trà bê lại cho chúng tôi kèm theo mấy cái chén:

- Các chú uống trà mới đi. Thong thả uống nghe đồng đội kể chuyện chiến trường. Chuyện còn dài lắm...

Giọng ông trầm trầm với nụ cười nhìn bà.

Không nhìn lên, bà Thảo đưa tay nắm lấy tay chồng: - Chồng tôi, anh Tuấn. Chúng tôi gặp nhau dạo đó. Ra quân cách nhau vài năm nhưng cũng nên vợ nên chồng.

- Chuyện của chúng mình để sau đi bà. Kể tiếp chuyện cô Tâm đi.

- Vâng. Các ông uống nước đi. Tôi sẽ kể tiếp... Tôi kể đến đâu rồi các chú?

- Đến cái đoạn chị bảo cô Tâm làm em dâu.

- À… Tối đó con bé ngủ trong vòng tay tôi. Riêng tôi thao thức. Tự lòng tôi dâng lên tình thương đến nghẹt thở. Tâm là con gái đầu, nhà còn hai em một gái một trai còn nhỏ. Bố mẹ Tâm yếu, nhà rất nghèo ở vùng biển Hải Hậu. Tôi không sao ngủ được, cứ đưa tay vuốt tóc nó, vuốt bờ vai mảnh dẻ, vuốt eo hông vừa chớm tròn đầy của nó, nghĩ như nó đã là em dâu của mình rồi. Thế rồi tôi cũng chợp mắt được một lúc. Chúng tôi gọi nhau dậy khi lờ mờ sáng. Đêm hôm đó không có gì xảy ra ngoài đường. Chúng tôi được một tối ngủ yên. Sáng ra, lúc xuống suối đánh răng, rửa mặt, gặp cái Tâm, con Thục người Quảng Bình cười nói, con Tâm có người yêu rồi bay ơi...

Hóa ra đêm qua cái Thục đã nghe được chuyện bà nói với Tâm. Nghe Thục nói, mặt Tâm đỏ lựng lên, không nói gì. Có điều lạ, là sau bữa đó, bà và Tâm như chuyển sang một trạng thái tình cảm khác. Có gì đó rất thiêng liêng giữa bà và Tâm. Lo lắng, chăm sóc cho nhau đằm thắm hơn. Gặp nhiệm vụ gì nguy hiểm bà cứ muốn để Tâm lại phía sau. Và Tâm, bà làm gì, đi đâu Tâm cũng tỏ vẻ lo lắng, miệng thì thầm: Cẩn thận nha chị. Những lúc chỉ có hai chị em, Tâm hỏi khẽ: Anh ấy ra sao chị? Liệu anh ấy có chê em không? Bà đưa ảnh cậu em cho Tâm xem. Một chàng trai cao ráo, sáng sủa hiển hiện. Anh đẹp quá. Giọng Tâm bâng khuâng.

Kể đến đây, bà đưa tay chỉ sang cậu em đang ngồi cạnh ông Tuấn chồng bà.

- Cậu Tân hồi đó đẹp trai lắm.

- Giờ anh ấy cũng đẹp mà. - Tôi nói.

- Vâng. Bà kể tiếp. Sau đó mấy hôm, tôi nhận được thư Tân báo tin đã vào bộ đội. Đó là dịp tổng động viên rất lớn, động viên toàn miền Bắc. Học sinh, sinh viên nhập ngũ rất đông. Lá thư đầu tiên cậu Tân viết khi đã qua ba tháng huấn luyện. Hiện tại cậu đang thuộc một đơn vị cao xạ. Tôi đưa cho Tâm đọc thư cậu Tân. Chữ cậu Tân rất đẹp. Thư được viết trên giấy poluya hồng. Tâm đọc chậm rãi, vẻ mặt ánh lên một điều gì đó rất lạ. Tâm đọc đi đọc lại, tay cầm mãi tờ thư như không muốn trả tôi.

Lúc này đang là cuối năm, B52 Mỹ đánh Hà Nội dữ dội như các ông đã biết. Và trọng điểm chỗ chúng tôi cũng vậy. Ngày ngày từng tốp phản lực rập rình trên những rặng lèn đá dọc Trường Sơn săn lùng các đoàn xe, tìm đánh các trận địa cao xạ ta. Chúng đánh rất rát, nhiều hôm chúng tôi không thể ra mặt đường, chỉ đứng nép bìa rừng nhìn lên trọng điểm chìm trong khói lửa mà lòng như lửa đốt. Một chập chiều, khi máy bay địch vừa rút, tôi cho chị em về lo cơm nước rồi một mình đi lên trọng điểm. Cái Tâm nằng nặc đòi theo, cuối cùng tôi phải đồng ý. Hai chị em vừa đi được một đoạn thì nghe tiếng bim bim còi xe phía sau. Chiếc Zil 130 rùm ròa ngụy trang đỗ xịch, cửa ca bin mở ra. Là anh Tuấn. Xe anh Tuấn chở hàng vào sắp sửa đi qua trọng điểm. Anh Tuấn trao cho tôi một gói nhỏ rồi nhìn sang Tâm. Anh ngập ngừng, quà cho hai chị em. À, suýt quên. Có đơn vị cao xạ phía ngoài kia, có lẽ sắp vào đấy. Rồi anh Tuấn vội vàng lên xe đóng sập cửa. - Chị em cẩn thận nhé. - Anh cũng phải cẩn thận. Tôi nói với theo mà lòng đau thắt trong lo lắng.

Lại một chiếc xe nữa bò lên. Người lái xe thò tay qua cửa vẫy vẫy. Tôi vẫy theo chào, còn Tâm đứng ngẩn ngơ.

Tối đó, và mấy hôm sau chị em tôi thấp thỏm. Vẫn chưa có đơn vị cao xạ nào đi qua. Nếu họ vào thì chỉ vào đêm, hoặc chập chiều. Vậy là chập tối nào chị em tôi cũng ra bìa rừng đứng ngóng. Đêm nào chúng tôi cũng thao thức, lắng trong tiếng máy bay địch chờ nghe tiếng ô tô vào. Cũng chẳng thấy anh Tuấn ra, hoặc ra rồi mà chúng tôi không biết. Chập tối đó, khi vừa ăn xong tôi bảo với Tâm, mình ra đường đi. Chị đoán chắc tối nay đơn vị Tân sẽ vào. Nghe tôi nói xong Tâm quýnh quáng chải lại tóc, lấy mảnh gương trong cóc ra soi rồi lôi từ cóc sau ra cái gói ni lông đã chằng buộc bằng một sợi len xanh cổ vịt. Món quà anh Tuấn trao có hai chiếc cặp tóc và nắm kẹo chanh tôi đã san cho Tâm một nửa, và tôi thấy Tâm có một bao thuốc Tam Đảo nữa, chẳng biết ai cho. Tất cả có lẽ trong cái gói kia. Tâm đã để dành cho em trai tôi. Người mà Tâm tơ tưởng do tôi, người mà Tâm chưa một lần chạm mặt. Nhìn vẻ mặt hăm hở tràn đầy xúc động của Tâm lòng tôi chợt rung lên, chẳng biết vì điều gì.

Rừng chiều đã nhập nhoạng. Tiếng máy bay ầm ì xa xa, và hình như đã có tiếng ô tô. Nhanh lên chị. Giọng Tâm run run. Bỗng con Thục sán đến, cho em theo với. Chúng tôi rảo bước. Tâm đi đầu với vẻ nôn nóng, chân bước gấp gấp, bóng lẫn trong bóng cây rừng đen thẫm. Chân Tâm đã chạm mép đường và máy bay ào đến, tiếng nổ rền vang như tiếng sét. Pháo sáng bùng lên cùng lúc dòng đạn 20 ly phóng xuống. Luồng đạn đỏ lừ cắm phầm phập xuống dọc mép đường. Tâm ngã xuống...

Từ tay Tâm văng ra cái bọc. Đến khi chôn cất Tâm, chúng tôi mở ra, thấy mấy cái kẹo chanh, bao thuốc Tam Đảo, hai bánh lương khô. Tâm vẫn để dành...

Bà Thảo ngừng nói, tay đưa lên ôm ngực. Và lúc này chúng tôi cũng như bừng tỉnh. Mãi theo dõi câu chuyện, bốn chúng tôi chìm trong xúc động từ lúc nào. Ông Bình ngồi cạnh tôi rút mùi xoa chấm nước mắt. Chúng tôi ngồi lặng lúc lâu không ai nói được câu nào. Ông Tuấn chồng bà, ông Tân em bà cũng đã ghé lại từ lúc nào.

Con bé chết, hình ảnh nó ngã sấp xuống trong ánh lửa đỏ khé ấy như thỏi sắt nung đỏ dí vào hồn tôi. Tôi như người mất hết hồn vía cả tháng trời sau đó. Tôi lao ra ôm Tâm vào lòng chạy lùi vào rừng. Một dòng máu trào ra từ lưng con bé ướt đẫm ngực tôi. Con Thục hét lên một tiếng chạy ngược trở vào gọi các bạn. Lục ba lô Tâm, bộ quân phục mới nhận còn nguyên như để dành. Một quần lụa dâu, một sơ mi hoa, và cái khăn thêu dở… Một lá thư cho bố mẹ cũng mới được mấy dòng… Chiếc gương nhỏ, cái lược sừng. Tối đó, chúng tôi chôn cất Tâm bên gộp đá cạnh lèn, cách lán ở độ trăm mét. Trời mờ mờ sáng, cả tiểu đội như hóa đá bên nấm đất.

Các ông à. Phải chăng con người ta linh cảm được việc sống chết. Tôi biết, khi nghe tôi dạm làm chị dâu lòng Tâm như đã gắn bó với người con trai. Lạ thế đấy. Và câu nói của nó hôm đó, vô tình vuột ra hay sao?

- Tôi chưa được gặp cô ấy...

Lúc này ông Tân em bà mới lên tiếng. Nghe chị tôi kể lần nào là tôi khóc lần đó. Sao có người con gái trong sáng đến thế chứ. Đêm đó chúng tôi vào muộn. Chiếm lĩnh xong trận địa, và lập xong đài quan sát trên một mỏm đá cao trên một ngọn đồi độc lập thì trời sáng. Và sáng đó đã xảy ra một trận đánh.

- Khoan, anh vừa nói tới đài quan sát?

- Vâng, cao xạ vào Trường Sơn, do núi bao bọc nên phải có đài quan sát. Ông Tân trả lời và nhìn tôi đăm đăm.

- Tôi hiểu rồi... - Nói rồi tôi thuật lại chuyến đi vào khe núi có tiếng khóc ấy.

- Chỗ đó là miền Tây, thuộc huyện T.H của Quảng Bình mà nay là Quảng Trị. Nghe anh kể, và chuyến đi cùng chị tôi vào đó tôi mới nhận ra, dù nơi đó đã khác đi nhiều.

- Hóa ra chị Thảo vừa trong đó về ư? Mấy chục năm rồi.

Tôi nói rồi nhìn sang bà Thảo.

- Vâng! - Bà Thảo nói, tôi vừa trong đó về.

Bây giờ nét mặt bà Thảo mới dãn thoát khỏi vẻ u ám. Tôi như vừa trút được gánh nặng, vừa cất đi được tảng đá đè ngực suốt mấy chục năm nay. Vừa rồi bà Thục, cái con bé Thục người Hiền Ninh, Quảng Ninh ấy điện cho tôi. Chúng tôi liên lạc được với nhau cũng nhờ cái này. Bà Thảo chỉ vào cái IPhone đang để trước mặt. Thục báo cho tôi việc tìm ra hài cốt của Tâm. Mấy chục năm rồi, ra quân ai lo phận ấy, hồi ức bom đạn chìm trong việc lo cơm áo, chỉ thi thoảng hiện về trong những dịp kỷ niệm... Liên lạc được với Thục, chúng tôi nhắc nhau về Tâm, về nơi Tâm nằm. Nhớ thế, biết thế mà không biết làm sao. Thục cho biết, đường mới mở qua đó, máy xúc đã chạm chỗ Tâm nằm... Bà Thục khóc nói với tôi. “Em run lên khi thấy họ đăng trên mạng chị à.” Cái lọ Penicillin bỏ theo thi hài Tâm khi chôn vẫn còn. Hài cốt Tâm được quy tập về Nghĩa trang huyện trong đó. Mọi thông tin về Tâm được khắc rõ ràng trên bia. Thục nhắc đi nhắc lại mãi. “Chị vào nhé. Chị vào em, chị em mình đi viếng mộ Tâm”.

Mừng quá, tôi gọi về Nam Định báo tin cho cậu Tân. Cậu Tân cũng rất mừng, chị em tôi quyết định đi. Trước lúc lên đường, chúng tôi ghé xuống Hải Hậu tìm vào nhà bố mẹ cô ấy. Chả là lúc ra quân tôi đã mang ba lô kỷ vật của Tâm về cho ông bà. Ông bà đã mất. Cậu em út của Tâm chừng gần bốn mươi nghe chúng tôi kể thì mừng quá, quyết định đi cùng chị em tôi.

Bà Thảo thở phào. Tôi mãn nguyện rồi. Trước mộ Tâm tôi đã xin lỗi Tâm, vì nghĩ rằng việc cô ấy hy sinh là do mình…

Trời đã gần trưa. Thấy chúng tôi vẫn ngồi yên. ông Tuấn pha thêm ấm trà mới. Chén nước ngọt nơi cuống họng không làm tôi rời xa ý nghĩ. Vậy là bà ấy đã được đón về. Cớ gì khe núi ấy có tiếng khóc lẩn khuất? Một tia sáng bất chợt lóe sáng trong đầu tôi. Tôi hỏi ông Tân:

- Anh nói thêm về cái đài quan sát của anh đi.

- À, là thế này. Chúng tôi làm cái chòi nhỏ trên đỉnh mỏm đá, treo lên thanh ngang vỏ một quả bom nhỏ để làm kẻng. Đứng trên cao phát hiện máy bay địch sớm hơn. Gõ kẻng báo động cho đơn vị...

Vậy là rõ rồi. Tôi cảm ơn vợ chồng bà Thảo, cảm ơn ông Tân. Đã đến lúc phải đứng dậy. Chào ra về, trong tôi cứ cựa quậy một ý nghĩ. Phải tìm ra nguyên nhân tiếng khóc ấy. Có thể tôi đã sơ bộ tìm ra nguyên nhân. Tôi quyết định lên đường vào Quảng Bình ngay ngày hôm sau. Sáng hôm sau, trên đường vào tôi gọi cho bạn. “Đón tôi nhé. Chúng ta sẽ đi tìm tiếng khóc”. Là sao? Bạn tôi hỏi. Tôi bảo, cũng chưa biết thế nào.

Tôi đi sớm, vào tới nơi đúng bữa cơm trưa. Tôi sẽ chẳng nói về bữa cơm thịnh soạn bạn tiếp. Tôi xin kể về những điều tìm thấy trên mỏm đá. Sườn ngọn đồi đất keo cao ngập đầu. Chúng tôi lên sát chân mỏm đá dễ dàng. Và trèo lên độ cao tầm mười lăm mét cũng không mấy khó khăn vì đã có những mỏm đá bên vách. Đỉnh mỏm đá, cái chòi có những đoạn gỗ gác ngang đã sập mục. Và trong khe nhỏ giữa hai vách đá, chúng tôi tìm thấy vỏ một quả bom nhỏ kẹt cứng, cách đỉnh mỏm đá chừng năm mét. Vỏ quả bom vẫn còn nhẵn, tuy đã bám một lớp gỉ đen. Miệng quả bom toác loe, nằm úp chếch xuống. Rõ rồi, mình rõ rồi. Bạn tôi kêu lên.

Chúng tôi bàn nhau sẽ kéo cái vỏ bom lên. Nhưng nghĩ thật khó. Khe giữa hai vách đá quá hẹp, và nó đã mắc cứng. Có lách xuống cũng không sao lôi nó lên, và đưa nó lên cũng khó. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi nói: Cứ để nó đấy ông ạ. Cứ cho nó nằm đấy, xem nó còn “làm khổ” người ta được bao lâu.

N.N.L
(TCSH442/12-2025)

 

 

Các bài đã đăng
Vệt bùn sau lũ (19/12/2025)