Tạp chí Sông Hương - Số 234 (tháng 8)
Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung
09:56 | 08/08/2008
BÙI MINH ĐỨCLGT: Công trình khảo cứu dưới đây, phần lớn đã được công bố trong Hội thảo khoa học “Tây Sơn - Thuận Hóa và Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ - Quang Trung”. Một số báo, tạp chí đã lược trích đăng một phần bài viết. Mới đây, tác giả-bác sỹ Bùi Minh Đức (Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Mũi Học Hoa Kỳ (Fellow), Hội viên Hội Tai Mũi Họng và Đầu Cổ Đức Quốc (FachArzt HNO), nguyên Chủ nhiệm Bộ Môn Tai Mũi Họng, Đại học Y Khoa Huế trước 1975) đã gửi cho SÔNG HƯƠNG công trình khảo cứu này (có sửa chữa và bổ sung) để độc giả tạp chí có đầy đủ tư liệu. Trân trọng những lý giải khoa học hết sức mới mẻ của tác giả, SÔNG HƯƠNG xin giới thiệu toàn văn công trình này.
Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung

Vua Quang Trung đã qua đời cách đây đúng 206 năm. Ông mất nhằm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý tức là vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 dương lịch. Tuy nhiên cũng không phải tất cả các tư liệu còn lưu lại đến ngày nay đều đã đồng nhất ghi ngày qua đời của Vua Quang Trung là ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý này.
NGÀY QUA ĐỜI CỦA VUA QUANG TRUNG:
Sử gia Trần Trọng Kim viết “Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung bị bạo bệnh băng hà. “Hoàng Lê Nhất Thống Chí” thì ghi “Vua Quang Trung mất vào năm Nhâm Tý (1792). Sử gia Hoàng Xuân Hãn thì viết “Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý vào giờ Dạ Tý tức là ngày 16 tháng 9 năm 1792, vua Quang Trung băng hà. Sách “Các Triều Đại Việt Nam” của Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng (NXB Thanh Niên, 1995) ghi nhận “Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần” (tr. 232). Sách “Thế Thứ Các Triều Vua Việt Nam” của Nguyễn Khắc Thuần thì ghi nhận Quang Trung “mất ngày 16 tháng 9 năm 1792” (tr. 108). Riêng học giả Hoa Bằng thì viết “Vua Quang Trung mất vì chứng huyết vận năm Nhâm Tý (1792) và có nêu ra các triệu chứng do bệnh “huyết vận” gây ra.
Tuy thế, các tác giả khác viết về ngày chết của Vua Quang Trung thật sự cũng đã không đồng nhất với nhau về cùng một ngày mặc dầu sự việc cũng chỉ mới xảy ra cách đây 206 năm mà thôi:
1/ Phần lớn các tư liệu đều viết là Vua Quang Trung mất vào ngày HAI MƯƠI CHÍN THÁNG BẢY năm Nhâm Tý tức vào ngày 16 tháng 9 năm 1792 như đã nêu lên ở trên.
2/ Trong các sách như “Tây Sơn Thực Lục”, “Lê Quý Dật Sử” hay trong bài thơ của Phan Huy Ích (trong tập “Dụ am ngâm lục”) thì lại ghi ngày Vua băng hà là ngày BA MƯƠI THÁNG BẢY năm Nhâm Tý. Ông Phan Huy Ích là cận thần của Vua Quang Trung thì chắc chắn ông không thể nào lầm lẫn về ngày mất của Vua.
3/ Các sử sách triều Nguyễn như “Đại Nam chính biên liệt truyện” và “Tây sơn Thủy mạt khảo” thì lại ghi ngày mất của Vua Quang Trung là ngày 29 THÁNG CHÍN năm Nhâm Tý tức nhằm ngày 13 Novembre 1792 (tức 2 tháng sau khi vua Quang Trung thật sự băng hà). Đó cũng là ngày mà triều đình Tây Sơn báo tang với nhà Thanh bên Tàu. Theo các thư từ qua lại với nhau giữa hai giáo sĩ người Pháp Longer và Blandin hồi đó thì đã có một giáo sĩ khác là ông Lamothe báo cho họ biết rằng “cái chết của Quang Trung được giữ bí mật gần hai tháng trời mới được công bố bởi một sắc lệnh bắt buộc toàn quốc phải chịu tang vị Hoàng đế anh minh của mình”.
Cũng theo một bức thư của giáo sĩ Jacques Benjamin Longer gởi năm 1801 còn được lưu giữ tại văn khố Hội Truyền Giáo Paris thì Longer cũng đã nói rõ rằng “…Quang Trung, cha của Cảnh Thịnh, mất vào ngày MƯỜI LĂM THÁNG 9 năm 1792” (…Quang Trung, père de Cảnh Thịnh, mort le 15 Septembre 1792) (theo Đỗ Bang, “Những khám phá về Hoàng Đế Quang Trung”, 1988). Hoàng Xuân Hãn trong sách “La Sơn Phu Tử” cũng đưa ra hai nhân chứng người Âu là Guérard và Labousse đều nói rằng Vua Quang Trung “chết vào tháng Septembre 1792”. Tính theo Âm lịch thì “Septembre” năm 1792 kéo dài từ 15 tháng 7 đến 15 tháng 8 năm Nhâm Tý. Hoàng Xuân Hãn cũng đã kết luận Quang Trung mất nửa đêm 29 tháng Bảy Âm lịch tức là nửa đêm 15 rạng ngày 16 tháng chín năm 1792 vào giờ Dạ Tý. Giờ Dạ Tý của người xưa gồm có hai tiếng đồng hồ ngày nay, từ 11 giờ đêm đến một giờ sáng, một tiếng đồng hồ trước thuộc tháng Bảy và một tiếng đồng hồ sau thuộc tháng Tám năm Nhâm Tý âm lịch.
Và như vậy, chúng ta thấy ngay ngày qua đời của Vua Quang Trung đã được người xưa đưa ra ba ngày khác nhau: ngày 29 tháng Bảy, ngày 30 tháng Bảy và ngày 29 tháng Chín năm Nhâm Tý. Theo lý luận của tác giả An Chi (Chuyện Đông Chuyện Tây, Tập 3, NXB Trẻ) thì tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) là tháng thiếu, nghĩa là không có ngày 30. Theo lịch Vạn Niên thì năm Nhâm Tý là năm nhuận (có hai tháng tư) và tháng 7 đó là tháng thiếu, chỉ có 29 ngày mà thôi, tính ra dương lịch là ngày 15 tháng 9 năm 1792. Hôm sau đó là ngày 16 tháng Chín dương lịch tất phải là ngày MÙNG MỘT THÁNG TÁM năm Nhâm Tý. Như vậy ngày mất của Vua Quang Trung, đúng như giáo sĩ Longer đã ghi lại trong bức thư gởi cho hai ông Boiret và Descourvrières, đúng vào đêm 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1792 theo Dương lịch tức vào đêm 29 tháng chín rạng ngày Mồng Một tháng Tám năm Nhâm Tý theo Âm lịch.
Cuối cùng lại, nếu Phan Huy Ích không thể nào nhầm lẫn về ngày chết của Vua vì là cận thần của Vua Quang Trung thì ngày chết của Vua đúng là ngày 16 tháng 9 năm 1792 như chúng tôi đã nêu lên ở đầu bài khảo cứu này. 
Lúc mất, Vua còn rất trẻ, chỉ mới có 40 tuổi.  
ĐẶT VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG:
Các tài liệu lịch sử đều ghi là vua Quang Trung đã chết vì “bạo bệnh” nhưng không có tài liệu nào nói rõ ra đó là bệnh gì. Riêng tác giả Hoa Bằng thì cho rằng vua Quang Trung chết vì bệnh “huyết vận”.
Vua Quang Trung đã được xem là một vị anh hùng dân tộc nên trong quá khứ đã có nhiều người quan tâm đến cái chết đột ngột của vị anh hùng áo vải đó. Cũng vì thế nên đã có nhiều người đặt ra nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của vị Vua này. Tuy nhiên, từ trước đến nay vẫn chưa có một khảo cứu nào căn cứ vào Y khoa hiện đại để phối hợp với các sự kiện đã được ghi trong lịch sử để có thể cho chúng ta biết một cách chắc chắn hơn về bệnh trạng cũng như về nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung vào hồi đó. Và vì vậy, chúng tôi đã làm công việc đó.
Chúng tôi đã dựa trên các hiểu biết của nền Y học hiện đại và phối hợp với các tài liệu lịch sử giá trị của ngành Sử Học Việt Nam còn lưu lại đến ngày nay để suy diễn bệnh tình của vua Quang Trung trước giờ lâm chung. Mục đích của chúng tôi là “Thử tái lập hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung Nguyễn Huệ từ khi xảy ra bạo bệnh cho đến ngày qua đời”. Chúng tôi hy vọng bài khảo cứu của chúng tôi ngày hôm nay sẽ có thể đưa ra được lời giải đáp cho hai câu hỏi chính yếu về “CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG” mà mọi người chúng ta hằng quan tâm là:
1/ Vua Quang Trung đã bị bạo bệnh đột ngột trước lúc qua đời, vậy đó là “CĂN BỆNH” gì?
2/ Vua Quang Trung qua đời nhiều ngày sau “bạo bệnh”, vậy “NGUYÊN NHÂN TỬ VONG” là gì?
NHỮNG GIẢ THUYẾT VỀ CÁI CHẾT ĐỘT NGỘT CỦA VUA QUANG TRUNG: 
Trước hết, chúng ta cũng nên duyệt qua các giả thuyết về bệnh tình của vua Quang Trung mà nhiều tác giả đã cố gắng nêu ra trong quá khứ. Tuy nhiên, những giả thuyết không mấy thực tế như: “Nhà Vua bị Trời phạt”, “Nhà Vua bị Ngọc Hân Công Chúa đầu độc” hoặc bị “lạm phòng”, bị chứng “Thượng Mã Phong” mà chết, xét ra đều không đủ sức thuyết phục để chúng ta có thể tin tưởng, và vì thế chúng tôi cũng không phải dài giòng về các nguyên nhân nầy. Riêng về giả thuyết “Vua Quang Trung bị “Lạm phòng” hay bị chứng “Thượng Mã Phong” mà chết, Y khoa ngày nay đã chứng minh rằng “Thượng Mã Phong” là do “Trụy mạch Đứng Tim Tức Thời” (Sudden Cardiovascular Collapsus) và đó là một cái chết tức khắc, “bất đắc kỳ tử”, chứ không phải kéo dài đến mấy tháng mới chết.
Để giải thích cho cái chết đột ngột của Vua Quang Trung, một số tác giả trong quá khứ cũng đã có gia công suy diễn và cũng đã đưa ra nhiều kết luận khác nhau. Thiết tưởng chúng ta cũng nên duyệt qua một vài giả thuyết đã được đưa ra đó để “Ôn cố tri tân”. 
1/ GIẢ THUYẾT BỊ TRÙ ẾM: Theo tác giả Thái Văn Kiểm (“Vó Ngựa Xông Pha”, Tập San Nhớ Huế số 14) thì năm 1789 Vua nhà Thanh cử Thành Lâm sứ giả sang Thăng Long trao sắc phong cho Vua Quang Trung và có tặng cho Vua Quang Trung một chiếc áo màu có thêu kim tuyến bốn chữ: “Xa Tâm Chiết Trục Đa Điền Thử”. Không ai hiểu nghĩa của các chữ đại tự đó. Cho đến năm 1792 khi Vua Quang Trung mất, vua Càn Long có làm một bài thơ tặng và trong đó có câu thơ thứ bảy là: “Thất Tự Bất Năng Ai Thuật”, nghĩa là bảy chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm. Cũng không ai hiểu được bảy chữ gì đã gây ra niềm xót xa của vua Càn Long và tại sao vua Càn Long cứ nhắc mãi chiếc áo đó. Sau cùng có nhà chiết tự đã đoán ra được ý nghĩa thâm sâu sau: Chữ “Xa” (xe) và chữ “Tâm” (lòng) ghép lại trên dưới thành chữ “Huệ”. “Chiết trục” là “gãy trục” (xe nhà vua) còn “Đa điền thử” là “ruộng thì nhiều chuột”, ý nói rằng “Huệ gãy trục xe, sụp đổ trong năm chuột tức là năm Nhâm Tý 1792. Chúng tôi ghi ra giả thuyết nầy chỉ để chứng minh là người xưa cũng đã cố gia công suy nghĩ theo phương cách của các nhà nho xưa để giải thích nguyên nhân tử vong của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
2/ GIẢ THUYẾT BỊ BỆNH NGÃ NƯỚC (PALUDISME): Tác giả Hoàng Cơ Thụy (Việt Sử Khảo Luận, Đoạn 88-C, Tập 5, Hội Văn Hoá Hải Ngoại, Paris, Pháp) đã đưa ra các lý lẽ sau để chứng minh là Vua Quang Trung “đã chết vì bệnh chứ không phải chết bất ngờ” và bệnh đó là bệnh Ngã nước (Paludisme) tức bệnh Sốt Rét Vàng Da ngày nay. Chúng tôi xin nêu y nguyên văn của tác giả Hoàng Cơ Thụy: “Huệ có bệnh gì?. Hồi cuối tháng 9/1789 khi sứ nhà Thanh đến Thăng Long để tuyên chiếu của vua Càn Long phong Huệ làm An Nam Quốc Vương, thì Huệ đang ở Phú Xuân. Huệ biên thư ra Thăng Long, mời sứ thần Tàu đem sắc phong vào Phú Xuân làm lễ tuyên sắc. Thư viết: “…Duy nước tôi gần đây nhiều việc, tôi tự tất làm gây dựng lên theo việc binh qua… hàng ngày không được nhàn rỗi,… đại loạn lao nhương, đến nỗi cảm mạo gió sương, phải chứng bệnh thương hàn,… gặp khí lạnh mùa thu, bệnh cũ lại tăng…” (Phạm Ngọc Huyền, Việt Sử Đại Cương, sđd, tr. 144). Đời nay, người ta dùng hai chữ “thương hàn” để chỉ bệnh “Fièvre Typhoide” (xem Đào Đăng Vỹ, Pháp Việt Từ Điển, chữ “Typhoide”). Nhưng trong thư tháng 9/1789 của Nguyễn Huệ gởi sứ giả Tàu, chắc phải bằng chữ Nho chứ không phải chữ Nôm, hai chữ “thương hàn” chỉ có nghĩa là “sốt rét” (giọng Bắc) hay “nóng lạnh” (giọng Nam), nghĩa là “bệnh ngã nước” tức “paludisme”. Chúng ta nên nhớ rằng “ba anh em Tây Sơn” đều sinh trưởng ở đồi An Khê, đầy rừng rú và muỗi độc (anophèle) nên bị ngã nước là sự thường. Nhất là hồi xưa làm chi có thuốc “ký ninh” (Quinine) hay những thuốc mới tốt hơn nữa để chữa khỏi bệnh ấy như ngày nay. Rồi biết bao nhiêu biến chứng khác trong phủ tạng, do bệnh ngã nước gây nên… (xem Nouveau Larousse Médical, chữ “Paludisme). Ngay đến con trai của Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Thùy năm 1790 đang ở bên Tàu cũng bị lên cơn “sốt rét”. Rồi sau khi Huệ chết, bà Bắc Cung Hoàng Hậu là Ngọc Hân Công Chúa làm bài thơ khóc, nhan đề “Ai tư vãn” trong ấy có mấy câu: 
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Tác giả nầy còn ghi thêm: “Rõ ràng là một chứng bệnh “kinh niên” (từ nắng hạ sang mưa thu, lại đã kéo dài từ trước năm 1789), khi lên cơn nóng lạnh, khi hết cơn thì lại khoẻ mạnh, đi lại làm việc như thường... Nhưng sau cùng, có lẽ thêm vài biến chứng, làm cho vua “bóng mây thoắt đã ngưng chừng xe loan” (sao y nguyên văn lời trong sách của tác giả).
Tác giả Hoàng Cơ Thụy cũng còn dựa trên ý kiến “Bệnh kinh niên” nầy khi đề cập đến một lý do thứ hai về cái chết của Vua Quang Trung: “Theo Hoa Bằng, tác giả cuốn “Quang Trung”, “chép lại sử chữ Nho”, thì “một hôm, vào buổi chiều (vua Quang Trung) đang ngồi chơi bị “huyết vận..”(trích lại trong Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, sđd, tr. 563). Nếu “huyết vận” là chứng bệnh bị “hoa mắt, choáng váng cả người” mà tên Pháp là apoplexie hay là rupture d’anévrisme” thì một là chết ngay lập tức, hai là còn sống sót sẽ bị bán thân bất toại (hémiplégie) trong khá nhiều năm. Vậy không đúng với những triệu chứng kinh niên ghi trong “Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân Công Chúa.  
3/ GIẢ THUYẾT BỊ BỆNH HOẠI HUYẾT HAY BỆNH GAN SUY: Bác sĩ Võ Tư Nhượng đã viết trong bài “Thử chẩn bệnh Đại Đế Quang Trung” (Đặc San Tây Sơn, Xuân Kỷ Tỵ, 1989, California, Hoa Kỳ và được đăng lại trong Tập San “Dòng Việt” số 15, 2004, “Vua Quang Trung Nguyễn Huệ”, California, Hoa Kỳ) như sau: “Cũng căn cứ vào những sử liệu khác thì ngài thường than phiền mỏi mệt, nhức đầu, chóng mặt, kém ăn, kém ngủ, nước da xanh xao và trên da thường xuất hiện nhiều chấm đỏ” (Tác giả không ghi rõ các tư liệu nào về những triệu chứng này, chỉ có đề cập trong trang trước đó vài hàng về bệnh “huyết vận” mà Hoa Bằng đã đưa ra). Tác giả ghi tiếp: “Căn cứ vào những sử liệu trên, tôi nghiêng ý nghĩ của tôi vào những bệnh liên can đến máu hay gan. Có thể đây là loại hoại huyết cấp tính. Lúc phát hiện và chấm dứt trong 90 ngày có thể là giai đoạn cuối cùng của một bệnh đã kéo dài của bệnh hoại huyết kinh niên. Một chứng bệnh khác có thể gây ra những triệu chứng như ông Hoa Bằng là bệnh gan suy... vì yến ẩm quá nhiều, nhất là ẩm, nên dễ bị chứng chai gan hoặc vì chinh chiến màn trời chiếu đất mà bị viêm gan (Viral Hepatitis) đi đến chai gan hay ung thư gan”. Ngoài ra trong bài tác giả cũng có trích “Kiều”, chúng tôi cũng xin nêu ra đây luôn: 
“Trách vì thầy thuốc dở dang,
Chẳng thông mạch lạc, chẳng tường lý y.
Thương phong thì nói thương hàn,
Bệnh kia ngoại cảm nói càn nội thương!”
4/ GIẢ THUYẾT BỊ BỆNH HUYỄN VỰNG: Tác giả Trần Văn Tích, một bác sĩ y khoa, đã viết về cái chết của vua Quang Trung trong bài “Bệnh Tật Trong Văn Thơ” (Tạp chí Văn Lang, Số 2, Tháng 12, Năm 1991, trang 73 và 74, Hoa Kỳ) như sau: “Cái chết của vua Quang Trung năm 1792 lúc mới 40 tuổi được mô tả trong một bệnh cảnh với những tiền chứng là những ảo giác và thị giác, nếu căn cứ vào chính sử nhà Nguyễn là bộ Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, phần Ngụy Tây Liệt truyện… Chẩn đoán xác định đưa đến cái chết của Vua Quang Trung, vẫn theo sử sách triều Nguyễn, là chứng “huyễn vựng”. Khác với ác tật, “huyễn vựng” là một từ thuật ngữ y khoa. Đó là một tình huống bệnh lý có thể tương đối nhẹ, có thể rất nặng. Nàng Kiều chẳng hạn đã từng bị “Mới dằn cơn vựng chưa phai giọt hồng”. Còn Lãn Ông, trong “Y Trung Quan Kiện”, đã mô tả chi tiết chứng trạng nầy cùng những phương pháp trị liệu. Hiểu theo cách hiểu của y học hiện đại thì “huyễn vựng” là xây xẩm mặt mày, tối tăm trước mắt, ngã té đột ngột, có thể bất tỉnh, có thể bán thân bất toại, như thế tương ứng với bệnh cảnh lâm sàng của chứng xuất huyết não do tổn thương động mạch. Có lẽ bởi thế nên vua Quang Trung không chết ngay và nếu đúng là nhà vua còn có thể bàn bạc với quần thần - nghĩa là không có rối loạn ngôn ngữ - thì tổn thương phải ở bán cầu phía Phải”.
NGUYÊN NHÂN CÁI CHẾT CỦA VUA QUANG TRUNG THEO Y KHOA NGÀY NAY:
 I/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Phương pháp làm việc của chúng tôi trong đề tài nghiên cứu căn bệnh của vua Quang Trung là căn cứ vào những tư liệu có giá trị đích thực của Sử Học Việt Nam, những tư liệu có đả động đến bệnh trạng của Vua Quang Trung để suy nghiệm ra các triệu chứng khá “chắc chắn” của bệnh trạng của Nhà Vua hồi đó. Sau đó, chúng tôi đối chiếu các triệu chứng “chắc chắn” đó với một số các căn bệnh cũng có cùng những bệnh chứng đó của Y Khoa ngày nay để có thể phỏng đoán được “bệnh trạng” của Nhà Vua là gì. Rồi từ “căn bệnh phỏng đoán” khá chính xác đó, chúng tôi lại sẽ quay ngược lại để biết thêm những “triệu chứng có thể” đã xuất hiện trên người Vua sau ngày bạo bệnh, căn cứ vào các hiểu biết của Y khoa tân tiến ngày nay.
Độ chính xác của “căn bệnh phỏng đoán” của Nhà Vua trên thực tế chắc chắn sẽ không thể nào là 100% vì bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua từ bấy đến nay (đã trên 200 năm) nhưng chúng tôi tin rằng đó là “độ chính xác cao nhất có thể đạt được và có thể tin cậy được” căn cứ vào các tư liệu hiện hữu và các hiểu biết của Y khoa ngày nay.
Trong bài khảo cứu nầy chúng tôi cũng đã phải sử dụng đến các sơ đồ (“Paradigm” và các “Flow Charts”), nói nôm na là sơ đồ của “cái nầy đưa đến cái kia” về triệu chứng và về căn bệnh. Chúng tôi cũng áp dụng lối lý luận bằng “phương pháp loại trừ” của logic theo Y khoa ngày nay theo lối “không có cái nầy thì sẽ không có cái kia”. Chúng tôi cũng đã sử dụng một số kết quả về thống kê của các bệnh tật theo các khảo cứu của Y học ngày nay và chúng tôi cũng sẽ luôn luôn dựa vào các kết quả thống kê với xác xuất cao nhất, khả dĩ nhất để lấy quyết định. 
Cũng trên đường đi tìm “bạo bệnh” của Vua Quang Trung, chúng tôi đã phải tiếp cận với nhiều nguồn tư liệu cao cấp của các Chuyên Ngành trong Y khoa ngày nay. Chúng tôi cũng đã có cơ hội tiếp xúc được với nhiều Chuyên gia cao cấp, đi từ địa hạt Nội Thần Kinh, Ngoại Thần Kinh qua Tai Mũi Họng và Nội thương cho đến Tim học. Và cũng vì thế, chúng tôi đã có nhiều cơ hội tiếp nhận được những kinh nghiệm lâm sàng trực tiếp từ các vị Chuyên gia hàng đầu trong các ngành đó.
Nói tóm lại, chúng tôi sẽ lần lượt nêu lên những tư liệu Sử học mà chúng tôi sử dụng và cùng lúc đưa ra những kết quả về triệu chứng bệnh lý mà chúng tôi suy diễn được dựa vào những tư liệu đó. Chúng tôi cũng sẽ thử “tái xây dựng” hồ sơ bệnh lý của Vua Quang Trung theo nguyên tắc “SOAP” của các hồ sơ bệnh lý y khoa ngày nay: “S” (Subjective) là các triệu chứng chủ quan tự cảm thấy của bệnh nhân (phần Bệnh sử), “O” (Objective) là các triệu chứng khách quan tìm thấy được trên người bệnh nhân (phần Triệu chứng), “A” (Assessment) là kết luận về bệnh trạng đã được suy diễn ra (phần Định Bệnh Phân Biệt “Differential Diagnosis” và phần Định Bệnh Lâm Sàng “Clinical Diagnosis) và cuối cùng, “P” (Plan) là những quyết định thử nghiệm (Laboratory Tests) và điều trị (Treatment Plan) về căn bệnh đã được suy diễn ra đó. 
2/ THỬ TÁI LẬP HỒ SƠ BỆNH LÝ CỦA VUA QUANG TRUNG: 
        HỒ SƠ BỆNH LÝ 
TÊN VÀ HỌ: NGUYỄN HUỆ (VUA QUANG TRUNG)
TUỔI: 40
GIỚI TÍNH:
NGHỀ NGHIỆP: Chỉ Huy Quân Đội. Tánh xông xáo, thích hoạt động. 
I/ BỆNH SỬ (HISTORY OF THE PRESENT ILLNESS):
A/ TƯ LIỆU CHỨNG MINH: Trước hết chúng tôi đưa ra vài tư liệu dính dáng đến khởi điểm của bạo bệnh của Nhà Vua.
1/ Theo “Đại NamThực Lục Chính Biên”, Tập II, Đệ Nhất Kỷ 1 (Tổ phiên dịch Viện Sử Học, Đào Duy Anh hiệu đính, tr. 159 - 160): “..Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ chết. Nguyễn Huệ ngồi chơi buổi chiều, bỗng mơ thấy một ông già tóc bạc từ trên không xuống, mặc áo trắng, tay cầm gậy sắt, chỉ vào Huệ mà bảo rằng: “Ông cha mày sống trên đất vua, đời đời làm dân vua, mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm?”. Rồi đánh vào trán một cái. Huệ ngất ngã ra. Tả hữu đều sợ. Giờ lâu mới tỉnh. Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ. Nhân đó, ốm không dậy được, dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng “Ta sẽ chết đây! Thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được. Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên, khi Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An, dời dân vào Quy Nhơn), đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được. Ta đắp thành dày để làm kế Tấn Dương ngày khác cho mày. Sau khi ta chết, mày nên về đó. Nếu có biến cố còn có thể giữ được. “Rồi Huệ chết”.  
2/ Theo “Đại Nam Chính Biên Liệt truyện”, phần “Ngụy Tây Liệt truyện”: “Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm tối tăm, kế thấy một ông già đầu bạc mặc áo trắng từ trên trời xuống, tay cầm gậy sắt mắng rằng: “Ông cha ngươi sống ở đất các chúa, đời đời làm dân của chúa, ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?”. Rồi lấy gậy đánh vào trán, bất tỉnh nhân sự lâu lắm. Lúc tỉnh dậy, nhà vua đem chuyện ấy nói với quan Trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bệnh chuyển nặng, mời quan Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa xong thì Thế tổ ta (tức vua Gia Long) đã lấy lại được Gia Định, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe được lo buồn, bệnh ngày càng kịch liệt”.   
B/ BỆNH SỬ QUA CÁC TƯ LIỆU ĐÃ DẪN: Qua hai tài liệu trên, chúng ta có thể suy diễn được diễn tiến của bệnh trạng lúc khởi đầu như sau: “Bệnh nhân là một người nam, mới 40 tuổi. Bệnh nhân đang ngồi chơi buổi chiều, không vận dụng sức lực hay làm việc gì nặng nhọc, bỗng cảm thấy xây xẩm tối tăm, đầu đau như có ai cầm gậy sắt đánh vào trước trán và té xuống liền, hôn mê bất tỉnh. Sự việc xẩy ra rất đột ngột. Giờ lâu bệnh nhân mới tỉnh lại”.
II/ TRIỆU CHỨNG CĂN BỆNH (SIGNS AND SYMPTOMS):    
Xét theo bệnh sử và nói theo từ ngữ y khoa ngày nay, chúng ta có thể ngược dòng thời gian để suy nghiệm ra các triệu chứng của căn bệnh ban đầu của Vua Quang Trung. Chúng tôi đã có thể ghi nhận bảy yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là:      
- 1/ “BỆNH NHÂN CÒN TRẺ”, chỉ mới 40 tuổi.      
- 2/ “ĐAU ĐẦU DỮ DỘI, ĐỘT NGỘT” (Headache Severe, Sudden Onset)
- 3/ “XÂY XẨM”: CHÓNG MẶT (Dizziness)    
- 4/ “TỐI TĂM”: MẮT NHÌN KHÔNG THẤY (Trouble of Vision)    
- 5/ “HÔN MÊ NGẤT XỈU THÌNH LÌNH” (Sudden Loss of Conscienciousness, gọi tắt là L.O.C.).      
- 6/ “KHÔNG VẬN ĐỘNG SỨC LỰC” khi xẩy ra biến cố (No Physical Exertion).
- 7/ “KHÔNG BỊ TỔN THƯƠNG TRÊN ĐẦU” do bị va đập trước đó (No Previous Head Trauma History).      
- 8/ “BỆNH NHÂN TỈNH LẠI: Bệnh nhân bị té xuống hôn mê bất tỉnh,“giờ lâu mới tỉnh” (Recovering from Consciousness after an Interval).      
- 9/ “BỆNH NHÂN KHÔNG BỊ HÔN MÊ DÀI NGÀY” (No Coma of long duration).
III/ ĐỊNH BỆNH PHÂN BIỆT (DIFFERENTIAL DIAGNOSIS):      
Dựa trên các yếu tố đó, chúng ta có thể suy diễn ra các điều khác để tìm bệnh. Chúng ta lấy triệu chứng “Bất Tỉnh” (Loss of Conscienciousness) là triệu chứng quan trọng nhất của căn bệnh để làm điểm khởi đầu của lý luận định bệnh của chúng ta.      
Trong từ ngữ Y khoa, “Bất Tỉnh Mê Man” được gọi bằng từ ngữ chung là “Loss of Consciousness”, gọi tắt là “L.O.C.”. Có khi người ta còn gọi là “Apoplexy” và “Apoplexy” là từ ngữ thường dùng đi đôi với căn bệnh Xuất Huyết Não. Nếu bất tỉnh nhẹ, tỉnh lại ngay liền, thì gọi là “Syncope”, hôn mê nặng thì gọi là “Coma”.
Thông thường, khi bệnh sử có ghi “LOC” đột ngột mà trước đó không có dấu hiệu tổn thương nào trên Não Sọ thì Y khoa ngày nay thường nghĩ ngay đến “NGUYÊN NHÂN NÃO BỘ” và nhất là nghĩ ngay đến “TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO” (Cerebro - Vascular Accident, gọi tắt là CVA), còn được gọi là “BỆNH ĐỘT QỤY” (Stroke). Hàng năm tại Hoa Kỳ có 730.000 trường hợp mới về “Tai Biến Mạch Máu Não”.      
Một LOC đột ngột thường do các nguyên nhân về Não Bộ như sau:
- 5% là do U Bướu (Tumor) trên Não với các triệu chứng thần kinh suy sụp CHẬM RÃI (Progressive Neurologic Deficit) trong 68% các cas, và cũng có yếu liệt về thần kinh vận động (Motor Weakness) trong 45% các cas và có Nhức Đầu (Headache) trong 54% các cas, Động Kinh (26% các cas). 
- 95% là do các MẠCH MÁU TRÊN NÃO bị nghẽn hoặc bị vỡ gây ra xuất huyết.
- 80% là do NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemic Stroke, Arterial Occlusion): vì Máu Đông Tại Chỗ (Thrombotic Stroke) trong 50% các cas và do Cục Máu (Embolic Stroke) trong 30% các cas. Phân tách thêm, người ta thấy có 41% các cas Nghẽn Mạch không biết lý do, 21% các cas ở các động mạch nhỏ, 11% các cas ở các động mạch lớn và 16% do Cục Máu từ Tim đến (Cardiogenic Embolie) như trong bệnh “Nhồi Máu Cơ Tim” (M.I. Myocardial Infarction) hay trong “Chứng Hẹp Lỗ Van Hai Lá” (Mitral Stenosis) hay trong “Chứng Loạn Nhịp” (Arrythmia).
- 20% là do XUẤT HUYẾT TRONG NÃO:  
- 14% là do “Xuất Huyết trong Não Bộ” (IntraCerebral Hemorrhage, viết tắt là ICH)
- 6% là do Xuất Huyết Dưới Màng Nhện (Sub - Arachnoid Hemorrhage, viết tắt là SAH)
- A/ NGHẼN ĐỘNG MẠCH (Ischemic Stroke) thường bị “HÔN MÊ SÂU ĐẬM” và thường xảy ra cho người LỚN TUỔI, trên 50 tuổi. Triệu chứng khởi đầu cũng có thể thình lình nhưng “KHÔNG CÓ ĐAU ĐẦU”, không bị sốt. Bị yếu dần về thần kinh bắt đầu từ tay rồi lan ra các vùng khác, TĂNG LẦN từ từ từng bước một, từ vài giờ cho đến vài ngày (24 giờ-72 giờ) và thường về một phía. Tay chân có thể bị yếu dần và bị Liệt Tay Liệt Chân ở phía đối diện (Controlateral Hemiplegia) và cả tê tay tê chân. Thường là do “Nghẹt Động Mạch Não Giữa (Middle Cerebral Artery).  
- B/ XUẤT HUYẾT TRONG NÃO BỘ (Intracerebral Hemorrhage = ICH): 14% các cas bị HÔN MÊ BẤT TỈNH (LOC) và thường được gọi là “Apoplexy” mà không có tổn thương do Va Đập nào trước đó. Bệnh nầy thường do “VỠ ĐỘNG MẠCH” trong khối chính của Não tạo thành “Cục Máu” còn gọi là “Khối tụ máu” (Hematoma) đè ép lên trên Não Bộ và gây nên các triệu chứng về Thần kinh Não bộ. Bệnh nầy thường xảy ra ở người CAO TUỔI, phần lớn là đàn ông trên 55 tuổi và phần lớn do CAO HUYẾT ÁP (Hypertension). Càng lớn tuổi càng dễ bị bệnh này. Có thể do sự “Vận động Sức Lực Quá Trớn” (Onset during Activity or Exertion) như khi đi đại tiện bị bón phải rặn hay khi đang chơi thể thao như Tennis chẳng hạn. Bệnh nhân thường “BẤT TỈNH HOÀN TOÀN” (Coma). Triệu chứng “Thần kinh hỗn loạn” trong “Xuất Huyết Não” thường xảy ra tối đa ngay lập tức (maximal at onset) chứ không diễn tiến từ từ như trong bệnh “Nghẽn Mạch Máu Não”. Nếu tỉnh dậy cũng sẽ có Đau Đầu, Ói Mửa, Chóng Mặt, Bị Liệt chân tay và Suy sụp thần kinh từ từ (Neuro Deficit Progressive) và có thể bị Cấm Khẩu không nói được, bị bệnh Liệt Mặt (liệt dây thần kinh Mặt tức dây thần kinh Não số 7), v.v..
- C/ XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN (Subarachnoid Hemorrhage = SAH). Đa số các bệnh “Xuất Huyết Dưới Màng Não” thường là do Chấn thương Sọ Não. Phần còn lại, tức các cas không có dấu hiệu chấn thương trên Đầu, là do sự “Tự Vỡ của các Mạch Máu Dưới Màng Nhện” (Spontaneous Subarachnoid Hemorrhage):    
1/ 80% là do sự Tự Vỡ của các động mạch bị Nở Phình (Spontaneous Rupture of Aneurysm).    
2/ 5% là do sự Tự Vỡ của các Tật Dị Dạng Động - Tĩnh Mạch Bẩm Sinh (Spontaneous Rupture of Congenital Arteriovenous Malformation) trong Não, dưới Màng Nhện.  
Bệnh nầy là “thường xảy ra ở “NGƯỜI TRẺ KHOẢNG 40 TUỔI” (20% các cas từ 15 - 45 tuổi) và xảy ra “BẤT THÌNH LÌNH” (Sudden Onset) (30% các cas lúc đang ngủ) với các triệu chứng sau: 1/ “BẤT TỈNH” và có thể Tỉnh trở lại 1/ “ĐAU ĐẦU ĐỘT NGỘT DỮ DỘI” (Severe Headache) (30% bị Đau Đầu về phía mạch máu bị vỡ), 2/ “BẤT TỈNH” ngay sau khi đau đầu đột ngột dữ dội. Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại, 3/ ÓI MỬA (Nausea and Vomiting), 4/ CHÓNG MẶT (Dizziness), CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG (Vertigo), 5/ CỔ CỨNG (Nuchal Rigidity hay Neck Stiffness), 6/ TÊ NỬA NGƯỜI (Hemiparesis), 7/ LIỆT NỬA NGƯỜI, còn gọi là “Bán Thân Bất Toại” (Hemiplegia). Ngoài ra cũng có thể còn có: 8/ LIỆT NỬA MẶT (Facial Palsy) do liệt dây thần kinh Não số 7 (Facial Nerve) một bên, 9/ Hỗn loạn về MẮT NHÌN như MẮT MỜ hay TỐI TĂM MẶT MŨI, bệnh SONG THỊ (Diplopia) do liệt dây thần kinh Não số 3 và “CHỨNG SỢ ÁNH SÁNG” (Photophobia), 10/ Hỗn Loạn về chức năng “NUỐT” do hỗn loạn của các dây thần kinh Não số 9 và số 10.
Thống kê ngày nay cho biết thêm các chi tiết sau: 50% các cas về “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” đã có triệu chứng báo hiệu (Warning Symptoms), thường là từ 6 đến 20 ngày trước đó. Tra cứu các tư liệu Sử học còn lưu lại, chúng tôi cũng không thể xác định được trước đó Vua Quang Trung có cảm thấy triệu chứng gì báo trước cơn bạo bệnh hay không, ví dụ như Đau Đầu, Chóng Mặt hay tê tay tê chân, yếu tay yếu chân hay Mắt mờ chẳng hạn. 
IV/ CHẨN ĐOÁN CĂN BỆNH CỦA VUA QUANG TRUNG (CLINICAL DIAGNOSIS):    
Như vậy, xuyên qua những triệu chứng của các bệnh về Xuất Huyết Mạch Máu Não trong trường hợp bị “BẤT TỈNH ĐỘT NGỘT” và so sánh với các triệu chứng khởi đầu của căn bệnh của Vua Quang Trung qua các tư liệu đã nêu ra, chúng ta thấy căn bệnh lúc ban đầu của Vua Quang Trung RẤT CÓ THỂ là: “BỆNH XUẤT HUYẾT NÃO DƯỚI MÀNG NHỆN” (Subarachnoid Hemorrhage) và theo thống kê, cũng RẤT CÓ THỂ là do: CHỨNG “TỰ VỠ MẠCH PHÌNH” (Spontaneous Aneurysm Rupture) (Theo thống kê, 80% căn bệnh “Xuất huyết Não Dưới Màng Nhện” nầy là do chứng “Tự Vỡ Mạch Phình”). 
V/ DIỄN TIẾN BỆNH TRẠNG (PROGRESS NOTES):  
Căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” nầy của Nhà Vua, ngoài những triệu chứng chính ban đầu mà ta đã suy diễn ra được qua những tư liệu đã dẫn chứng, liệu còn có các triệu chứng phụ nào trên người Vua phù hợp với sự tiến triển của bệnh lý theo y khoa ngày nay hay không? Chúng ta thử đi tìm thêm các triệu chứng đó và cũng sẽ dùng các tư liệu sử học để chứng minh bằng cách theo dõi diễn tiến của căn bệnh ban đầu cho đến ngày Vua qua đời. 
A/ Bài “Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân Công Chúa làm vào lúc Nhà Vua qua đời đã
Từ nắng hạ mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?”
Qua bài “Ai Tư Vãn” này, ta có thể rút ra thêm được các kết luận sau đây liên quan đến bệnh trạng của Nhà Vua:  
1/“Từ nắng hạ mưa thu trái tiết”: Vua đau từ mùa hạ đến mùa thu mới mất.
Khoảng thời gian có lẽ là TRÊN HAI THÁNG từ lúc phát bệnh đến giờ lâm chung. 
2/“Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên”: Vua day trở trên giường bệnh. Y Khoa ngày nay gọi là “CHỨNG BỒN CHỒN” (Restlessness), không thể nằm yên mà phải nhúc nhích qua lại. Đó là chưa nói đến những dư chứng thông thường của bệnh “Xuất Huyết Não” với những cơn ĐỘNG KINH (Seizures), CO GIẬT (Convulsions) cũng như những CỬ ĐỘNG RUNG CƠ TAY CHÂN (Tremblements), không kiểm soát được của tay chân. Tất cả đều khiến cho “Mình Rồng mỏi mệt chẳng yên” tức là di chứng “Bồn chồn” (RESTLESSNESS) do suy yếu thần kinh của căn bệnh “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện”.
Câu hỏi được nêu tiếp theo là những “dư chứng” nào khác còn hiện diện trên cơ thể con người của Nhà Vua sau cơn bạo bệnh?       
B/ “Đại Nam Thực Lục Chính Biên” cho ta biết qua tình hình chung sau khi Vua ngã bệnh: “…Huệ ngất ngã ra. Tả hữu đều sợ. Giờ lâu mới tỉnh. Huệ đem việc đó nói với trung thư Trần Văn Kỷ. Nhân đó ốm không dậy được, dặn con là Quang Toản …”.  
Qua câu nầy của “Đại Nam Thực Lục Chính biên” thì sau khi bị cơn bệnh thình lình, Vua đã “KHÔNG THỂ NÀO ĐỨNG DẬY ĐƯỢC”. Nhà Vua đứng dậy không được có thể là do bệnh Liệt Bại Tay Chân, tức là bệnh “BÁN THÂN BẤT TOẠI” (Hemiplegia) hay bị bệnh “CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” (Vertigo), và cũng có thể do cả hai bệnh chứng đó cùng xảy ra một lúc và đã làm cho Nhà Vua không thể nào đứng lên và bước đi ra ngoài được mà phải nằm suốt trên giường bệnh.    
- 1/ “BÁN THÂN BẤT TOẠI” tức Liệt Tay Chân về một phía (Hemiplegia hay Hemiparalysis) và cả “KHÔNG CẢM GIÁC VỀ MỘT BÊN THÂN” (Hemiparesis) đều là những di chứng thường tình của Bệnh Xuất Huyết Trong Não Bộ (Intracerebral Hemorrhage) do rối loạn hệ thần kinh vận động và cảm giác.
- 2/ “XÂY XẨM MẶT MÀY”, “ĐỨNG LÊN BỔ XUỐNG”, CHÓNG MẶT QUAY CUỒNG” đều là những di chứng thường đi theo với căn bệnh “Xuất Huyết Trong Não” hay “Xuất Huyết Não dưới Màng Nhện”. “Xây Xẩm Mặt Mày” (Dizziness) nhẹ hơn “Chóng Mặt Quay Cuồng” (Vertigo). Chính cái “Chóng Mặt Quay Cuồng” “Vertigo” nầy mà người xưa khi nói về căn bệnh của Vua Quang Trung cũng đã nhắc nhở đến và đã gọi đó là bệnh “Huyết vựng” hay “Huyễn vựng” hay “Huyết vận” như tác giả Hoa Bằng đã có ghi ra. Trong bệnh “Vertigo”, người bệnh thấy nhà cửa quay cuồng, bàn ghế quay cuồng, đứng không thể nào vững và thường ngã xuống và đầu có thể va đập vào bàn ghế gây thêm tổn thương Não.
3/ “ÓI MỬA”: Bệnh “Chóng mặt” hay “Huyễn Vựng” nầy thông thường “đi đôi sát nút” với triệu chứng “Ói Mửa”, thứ “Ói Mửa” mà người Huế gọi là “nhào đựng nhào đột”, hay thứ “Mửa ra mật xanh mật vàng” mà từ ngữ Y khoa ngày nay gọi là “Vomiting”. Nhẹ nhất là “Buồn nôn”, “Buồn Ói” hay “Muốn Mửa”, từ ngữ Y khoa gọi là “Nausea”. Nặng nhất là “Mửa” (Vomiting). Mỗi khi mửa, “ăn bao nhiêu ra bấy nhiêu”. Hễ mỗi khi có sự chuyển động của đầu hay thân hình là có “Nausea” hay “Vomiting” ngay lập tức. Thông thường trong căn bệnh “Xuất huyết Não, Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” thường có “Nausea” và “Vomiting” đi song đôi với nhau. Hễ đứng lên ngồi xuống là sinh ra “chóng mặt quay cuồng” ngay và sẽ “ói mửa lộn nhào”, không thể nào đứng dậy hay ngồi dậy để làm việc gì được. Vua Quang Trung có thể đã phải chịu đựng những cơn hành hạ của “Chóng Mặt, Ói Mửa” như đã trình bày ở đây và vì vậy mà Ngọc Hân Công Chúa đã phải mời Thầy chạy thuốc để chữa bệnh cho Vua.  
- 4/ “NHỨC ĐẦU NHƯ BÚA BỔ”: Triệu chứng nhức đầu cấp tính khi xảy ra Tai Biến Mạch Máu Não của Vua Quang Trung đã xảy ra “THÌNH LÌNH” đúng như sách vở ngày nay đã ghi nhận. Vua Quang Trung đã bị đau đầu dữ dội, “như có ai lấy gậy sắt đập vào đầu”. Sau khi tỉnh lại, các bệnh nhân của “Xuất Huyết Não” và nhất là “Xuất Huyết Dưới Màng Nhện” như Vua cũng thường vẫn bị những cơn đau đầu ghê gớm hành hạ. Khi lên cơn đau đầu đó, có người đã phải ôm đầu mà rên la. Và đó cũng là một di chứng của căn bệnh xuất huyết Não của Nhà Vua.   
- 5/ “NUỐT KHÓ”: Nếu bệnh nhân đã bị hư một bán cầu Não thì rất có thể bệnh nhân đã có triệu chứng “NUỐT KHÓ”, “NUỐT SẶC” do triệu chứng hỗn loạn về “Chức Năng Nuốt”. Đồ ăn sở dĩ nuốt được là nhờ các cơ của Thực quản dưới sự tác dụng của các dây Thần Kinh Não Bộ số 9, số 10. Khi Não Bộ ở một bên bị hư thì tác động của các dây thần kinh trong chức năng Nuốt về phía đó cũng bị hỗn loạn, bị tê liệt và vì vậy sẽ phát sinh các hậu quả về Nuốt. Bệnh nhân sẽ bị “Khó Nuốt” và thường bị “Nuốt Sặc” do đồ ăn đi lạc đường (Fausse Route) vào khí quản, gây nên phản ứng Sặc là phản ứng tự vệ thông thường. Nếu rối loạn về Nuốt khá nặng thì bệnh nhân có thể nuốt hít đồ ăn vào nằm trong cuống phổi và sẽ gây nên “Viêm Phổi Sặc” còn gọi là “Viêm Phổi Hít” (Aspiration Pneumonia), nguy hại đến tính mạng.  
Nói tóm lại, theo dõi bệnh tật của Vua, chúng ta có thể nhận thấy những dư chứng của căn bệnh của Vua trong những ngày trước khi lâm chung có thể là:
- 1/ BẠI LIỆT NỬA NGƯỜI (Hemiplegia)
- 2/ ÓI MỬA (Nausea, Vomiting)
- 3/ CHÓNG MẶT (Dizziness, Vertigo)
- 4/ ĐAU ĐẦU (Headache)
- 5/ CỨNG CỔ, ĐAU CỔ (Meningismus)
- 6/ ĐỘNG KINH (Seizures) (Có thể)
- 7/ CO GIẬT (Convulsions) (Có thể)
- 8/ CHỨNG BỒN CHỒN (Restlessness) (Có thể)
- 9/ NUỐT KHÓ, NUỐT SẶC (Swallowing Problems) (Có thể)   
- 10/ THỊ TRƯỜNG KHIẾM KHUYẾT (Visual Defect) (Có thể)
VI/ ĐIỀU TRỊ (TREATMENT PLAN): 
Trong bài “AI TƯ VÃN”, Ngọc Hân Công Chúa đã viết:
“Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?”     
Chính Ngọc Hân Công Chúa, vợ Vua Quang Trung, đã cho chúng ta biết là ngoài chuyện cầu khấn các đấng Thần Linh ở các Am Miếu linh thiêng để cầu nguyện cho Nhà Vua, Bà cũng đã phải bôn ba mời Thầy tìm thuốc khắp nơi để chữa cho Vua trong những ngày sau cơn bạo bệnh hòng mong bệnh tình Nhà Vua sẽ thay đổi, trở lại lành mạnh như cũ.  
Trong vấn đề chữa trị cho Nhà Vua, chúng tôi nghĩ là chứng bại liệt nửa thân khó lòng chữa chạy, bất cứ thầy thuốc nào, Đông hay Tây, cũng đều biết thế. Nếu có thể dùng thuốc để chữa chạy cho Nhà Vua là chữa chạy các chứng như: Ói Mửa, Chóng Mặt, Đau Đầu và Chứng Động Kinh, Co Giật chẳng hạn. Ngay chuyện đút cho Vua ăn chắc các gia nhân lúc đó cũng đã phải rất cẩn thận, phải đút chậm chậm từ từ để khỏi gây ra “Chứng Sặc”. “Sặc” là một phản xạ tự nhiên của con người để tống bỏ ra ngoài các thức ăn đi lạc vào cuống phổi, không cho đồ ăn có thể vào phổi và gây ra “Viêm Phổi Sặc” (Aspiration Pneumonia / Fausse Route Pneumonia). Ngay trong Y khoa ngày nay, khi nuôi bệnh và cho bệnh nhân ăn sau khi bị “Xuất Huyết Não Dưới Màng Nhện” cũng phải đút đồ ăn cho bệnh nhân một cách từ từ vì sợ bệnh nhân bị “Viêm phổi Sặc”. Viêm phổi Sặc khi đã để xảy ra sẽ rất ít khi có thể lành, cho dù có áp dụng các phương tiện tân tiến của thời nay như làm Nội Soi Khí Quản để hút đồ ăn đi lạc vào, xịt nước rửa khí quản để làm vệ sinh khí quản (Bronchial Toilette) cũng như dùng những Kháng Sinh đúng và mạnh để chận đứng nạn Nhiễm Trùng đáng sợ ở trên cơ thể những con người đang kiệt quệ sức khoẻ với hệ thống miễn dịch yếu kém.     
VII/ TIÊN LƯỢNG BỆNH TRẠNG (PROGNOSIS):      
“Đại Nam Thực Lục Chính Biên” và “Đại Nam Ch&

Các bài mới
Các bài đã đăng
Na ơi... (08/08/2008)