Thời sự Văn chương
Truyện dài kỳ trên báo Sài Gòn xưa: Nhà văn phơi truyện trên sào
08:24 | 31/05/2017

Các nhà văn Sài Gòn trước đây đều viết feuilleton (tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Đầu tiên là có thu nhập hằng tháng để lo cho nồi cơm. Thứ nữa là để độc giả biết tên tuổi, biết tiểu thuyết của mình. Thứ ba là việc viết feuilleton thúc đẩy nhà văn sáng tác liên tục, đồng thời nắm được thị hiếu, yêu cầu của người đọc đương thời.

Truyện dài kỳ trên báo Sài Gòn xưa: Nhà văn phơi truyện trên sào
Tiểu thuyết "Đò dọc" của Bình Nguyên Lộc từng được đăng trên báo Dân Chúng - Ảnh: tư liệu
Sau khi đăng báo rồi, các feuilleton ấy được các nhà văn gọt giũa, biên tập cho gọn gàng, khúc chiết và in thành sách. Nếu truyện đã được độc giả khoái thì việc in thành sách bán chạy, tác giả có đời sống thoải mái. Chẳng hạn Phú Đức là nhà văn có tác phẩm dài kỳ rất được độc giả yêu thích. Truyện của ông sau đó được in thành sách cũng bán chạy như thường. Thậm chí, tới sau năm 1975, nhiều tác phẩm của ông in lại cũng được độc giả đón nhận như xưa. Do đó, lúc sanh thời, ông là nhà văn có cuộc sống thoải mái nhứt, có xe hơi để lái đi du hí, có ngựa đua để hằng tuần vô trường đua Phú Thọ.
 
Nhà văn Sơn Nam cũng là một cây feuilleton. Ông viết đằm thắm và thường lồng vào truyện những nét văn hóa riêng của miền Nam. Có lần, tôi vô nhà ông, lúc ông còn ở chợ Ông Địa thuộc Q.Tân Bình. Ngồi trong nhà ngó ra, tôi thắc mắc khi thấy mấy dây kẽm (thường dùng để phơi quần áo) giăng quá khít nhau, các dây cách nhau chừng một hai tấc. “Giăng sào vậy làm sao mà bố phơi đồ?”. Ổng cười: “Đâu có để phơi đồ! Đó là sào phơi bài!”. Nghe vậy, tôi hỏi kỹ hơn mới hay, mỗi ngày ông ngồi ngay bàn viết gần cửa sổ để viết. Viết xong thì lấy kẹp treo bài trên sào đó. Các tờ báo có người tới, cứ lật bài thấy tên báo mình thì đem về vì tác giả bận viết không tiếp khách.
 
Ai “chạy sô” nhiều nhứt làng feuilleton ?
 
Nhà văn nổi tiếng “chạy sô” nhiều nhứt trong làng viết feuilleton là An Khê, vốn là con của bác sĩ kiêm nhà văn Nguyễn Bính (không phải Nguyễn Bính nhà thơ) có bút hiệu Biến Ngũ Nhy. Ông là một trong những nhà văn thuộc thế hệ đầu của văn học quốc ngữ. An Khê tên thiệt là Nguyễn Bính Thinh, gốc người Trà Vinh nhưng sanh tại Sa Đéc. Ông bắt đầu viết từ năm 1958 và viết khá nhiều, với đủ các thể loại. Ban đầu ông viết loại truyện dã sử cho các báo Đọc Thấy, Đời Mới với bút hiệu Cửu Lang như Xương máu Phiên Ngung, Người anh hùng mặt sắt, Đoàn quân ma... Sau chuyển dần sang loại tiểu thuyết tình cảm thì được độc giả ưa thích. Tác phẩm ăn khách nhứt của ông là Người vợ hai lần cưới viết năm 1960 (in thành sách năm 1961, tái bản năm 1962 và 1963). Khi feuilleton nầy đăng trên báo Tiếng Chuông, chỉ một thời gian ngắn số báo in tăng vọt ngoài sự chờ đợi của chủ báo. Truyện cũng đơn giản là khi đi rước dâu, bất ngờ chú rể nghi cô dâu chửa hoang nên cuộc đón dâu bị xù. Cô dâu buồn vô chùa tu. Sau đó, khi biết rõ chuyện đứa bé ấy là con của chị cô do ngoại tình mà có nên cô phải nuôi cháu, cuộc rước dâu lần thứ hai được tổ chức. Truyện còn được Đoàn cải lương Thanh Minh - Thanh Nga dựng thành tuồng Hai chuyến xe hoa với nữ nghệ sĩ Thanh Nga thủ vai chánh rất ăn khách. Từ 1958 đến 1972, ông viết tới 200 tiểu thuyết đủ loại, trong đó có cả tiểu thuyết gián điệp Người yêu của X13 X13 Trong lưới nhện với bút danh Nguyễn Bính Long (tên người anh ruột của An Khê).
 
Nhiều tác giả khác như Bình Nguyên Lộc, Dương Trữ La, Ngọc Linh, Lê Xuyên, Bà Tùng Long, bà Lan Phương... cũng sống bằng nghề viết feuilleton.
 
Bình Nguyên Lộc là một trong những cây viết “đại thụ” của làng báo, làng văn Sài Gòn. Ông tên thật là Tô Văn Tuấn, gốc người Tân Uyên, Biên Hòa, trong một gia đình buôn bán. Từ năm 1942, ông bắt đầu theo nghề viết và năm 1949 thì ở hẳn tại Sài Gòn. Ban đầu ông chỉ viết truyện ngắn, đến năm 1965 thì mới thật sự viết những tiểu thuyết dài hơi. Tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc như Đò dọc, Nhện chờ mối ai... dung dị, gần gũi với người miền Nam, mang hơi thở cuộc sống đương thời nên ông khá được độc giả ưa chuộng. Có năm ông phải viết mỗi ngày đến 11 feuilleton cho các tờ báo. Ông còn viết biên khảo có giá trị như Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Lột trần Việt ngữ... Ông mất năm 1987 tại Mỹ, để lại một gia sản đồ sộ với 50 tiểu thuyết dài, hơn 200 truyện ngắn, một số tác phẩm nghiên cứu và khoảng 100 truyện ngắn chưa in.
 
Dương Trữ La cũng là một tay feuilleton có hạng. Ông tên thật là Dương Ngọc Lạc, bắt đầu cầm viết từ cuối thập niên 1950 bằng nghề viết báo và làm thơ. Đến năm 1963, sau khi đoạt giải nhứt cuộc thi truyện ngắn của báo Tiếng Chuông thì ông bắt đầu viết tiểu thuyết và cũng từ đó bút danh Dương Trữ La xuất hiện. Đầu tiên ông viết chung với Bình Nguyên Lộc trong feuilleton mang tên Lòng ngỡ quên mà nhớ rất xa vào năm 1963 - 1964, rồi sau đó là một loạt tiểu thuyết như Nhớ nhung, Gái hoàn lương, Vẫn còn dang dở, Chiều nghiêng bóng nhỏ, Nắng bên kia đồi... Tác phẩm của ông chủ yếu phản ánh cuộc sống của dân nghèo thành thị những năm 1955 - 1975. Văn phong ông giản dị mà chân thật thẳng thắn, bình dân mà súc tích, huỵch tẹt mà bao dung độ lượng, khác nào tính khí người Sài Gòn. Đây là nhận xét của nhà báo Thiên Hà, một người được coi là bạn của ông.

Theo Trịnh Nhật Vy - TN

 

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng