KÊ SỬU
Văn học dân gian là kho tàng sáng tạo nghệ thuật tập thể của nhân dân lao động, phản ánh sinh động lịch sử - văn hóa - tâm thức của cộng đồng thông qua các hình thức ngôn ngữ nghệ thuật truyền miệng.
Trong đó, ca dao - thuộc hệ thống lời nói vần - là phương tiện đặc sắc chuyển tải tri thức, cảm xúc, đạo lý và ký ức cộng đồng bằng ngôn ngữ hình tượng đầy sức lay động [1, tr37 - 39; 3, tr.22 - 23].
Đối với các dân tộc thiểu số như Tà Ôi - cư trú lâu đời ở vùng núi phía Tây thành phố Huế - ca dao (nốh ibeeng) không chỉ là phương tiện biểu hiện tinh thần, mà còn là di sản phi vật thể mang dấu ấn sâu đậm của lịch sử, xã hội, môi trường và con người bản địa [2, tr.7]. Từ trong lao động, chiến đấu và sinh hoạt, người Tà Ôi đã sáng tạo nên hệ thống ca dao phong phú về thi pháp, đa dạng về chủ đề, thể hiện thẩm mỹ nguyên hợp đặc trưng.
Đáng chú ý, trong số bảy chủ đề lớn, chủ đề “Cổ động phong trào cách mạng và xây dựng cuộc sống mới” mang ý nghĩa nổi bật khi phản ánh trực tiếp những biến chuyển xã hội từ kháng chiến đến kiến thiết quê hương hiện đại [4, tr. 677]. Đây là dòng ca dao giàu tính ký ức, thể hiện ý chí, niềm tin và tinh thần cách mạng của cộng đồng Tà Ôi.
Dựa trên tài liệu Ca dao dân tộc Tà Ôi (Nguyễn Thị Sửu, song ngữ Tà Ôi - Việt) [4], công trình phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật ca dao chủ đề này, nhằm làm rõ một lát cắt độc đáo của văn học dân gian dân tộc thiểu số, đồng thời khẳng định ca dao Tà Ôi như một di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn và phát huy trong tiến trình hiện đại hóa văn hóa dân tộc.
1. Giá trị nội dung
Chủ đề ca dao Tà Ôi về Cổ động phong trào cách mạng và xây dựng cuộc sống mới thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước, niềm tin vào Đảng và khát vọng đổi thay đời sống cộng đồng. Với hình thức ngôn từ mộc mạc nhưng giàu tính biểu cảm, ca dao đã trở thành phương tiện cổ vũ hiệu quả, khuyến khích đồng bào đoàn kết lao động, xóa bỏ hủ tục, gìn giữ bản sắc văn hóa. Dưới góc nhìn văn hóa học, đây là những minh chứng sống động cho sự tiếp biến tư tưởng trong quá trình hiện đại hóa vùng dân tộc thiểu số. Chủ đề này gồm hai tiểu chủ đề chính: Cổ động phong trào cách mạng - phản ánh khí thế đấu tranh, tinh thần kháng chiến; Cổ động xây dựng cuộc sống mới - biểu hiện lý tưởng phát triển, khao khát canh tân gắn liền với bản sắc văn hóa Tà Ôi.
1.1. Cổ động phong trào cách mạng
1.1.1. Tái hiện hiện thực và cảm thức lịch sử trước cách mạng
Nhiều bài ca dao khơi gợi quá khứ mịt mù, lầm than trước khi có ánh sáng cách mạng, như một cách để nhấn mạnh giá trị chuyển mình lịch sử. Bức tranh cuộc sống cũ hiện lên ảm đạm, thiếu lý tưởng, thiếu người dẫn đường:
“Ape ubeénh ntra ơâq tăk kang,
Pang akoónh anhi kăh chom tang la”
(Người lớn xưa kia nhịn nói,
Đời cha chú không biết níu neo).
Ca dao như lời hồi tưởng tập thể, khơi dậy ý thức về nỗi đau của sự mất phương hướng khi chưa có Đảng, chưa có Bác. Những hình ảnh như “váy cũ kỹ”, “cơm bố thí”, “không có người quảng đại” nhấn mạnh đời sống khốn khó và thiếu người dẫn dắt:
“Nnai ape dai nnai aroóh areng,
Areas ape kăh vê o chihai,
Kăh vê o usăi chihai”
(Váy họ mang, váy cũ kỹ…
Người chủ của họ không có người quảng đại)
1.1.2. Khẳng định vai trò cứu tinh của Đảng, Bác Hồ
Một mạch ca dao lớn ca ngợi Đảng, Bác như ánh sáng cách mạng đưa đồng bào thoát khỏi tăm tối, như vị cha già dân tộc có “lời vang tận trời, khiến người cười vang mặt đất”:
“Chihai Bak Hô muíh lăk mbang angai toi séng,
Kang Bak Hô muíh lăk kateak angai kachăng”
(Tài năng của Bác Hồ khiến người lắng nghe vang tận trời,
Lời Bác Hồ nói khiến người cười vui vang cả mặt đất).
Cùng với đó, Đảng được ví như người mẹ, người thầy:
“Dang pi Dang achưng ndoi idău ndoi ingăi,
O yua he ta tăk muíh lloóq”
(Đảng tuyên truyền, động viên hàng ngày,
Đảng bảo chúng ta tập trung)
1.1.3. Đồng cảm với sự hy sinh, mất mát của chiến sĩ, người thân
Một trong những điểm cảm động nhất của chủ đề là nỗi đau thương và tri ân dành cho những người đã hy sinh vì độc lập, của người còn sống, đặc biệt là phụ nữ, mẹ già, trẻ em mồ côi, với ngôn ngữ giàu tính biểu cảm:
“Aroonh kampăn kammai lisoot kât tu karrong,
O rôm kalla chua kapăt ala aklom.”
(Thương cho bà góa thụp sụp cuối hàng rào,
Bà mong chồng về đắp lá thương yêu.)
“Kikhăn ikuk rbơi ilúm aro a-ăm,
Ipapi papoiq kăh vê iséng.”
(Chiếc khăn quàng lại dành đắp lúa cho mẹ,
Chuyện trò nhau không để ai nghe thấy.)
Qua đó, ca dao không chỉ là văn học dân gian mà còn là ký ức tập thể của một dân tộc trải qua kháng chiến.
1.1.4. Cổ động ý chí chiến đấu, xây dựng tinh thần “ai cũng là chiến sĩ”
Rất nhiều câu ca dao mang tính khích lệ, động viên người dân không phân biệt già - trẻ, trai - gái cùng nhau đứng lên:
“Yayék bo priu ape payur kuaq kaiq,
Dang Bak yua ape vơch ta tăk vơâch tarchâl”
(Tầm tã mưa lụt họ tạo dựng của cải,
Đảng, Bác bảo học tham gia chiến đấu)
“Karvan ikon ipe ngai yua vơch ta tăk vơch chichâl,
Alâng pikon Míq, alâng pikon yiam”
(Các anh mạnh dạn để các con tham gia chiến đấu,
Với giặc Mỹ, giặc Diệm.)
Tấm lòng hậu phương cũng góp phần chiến đấu, ca dao kêu gọi huy động sức người - sức của như “dựng rào”, “cưỡi voi”, “làm bẫy, làm hầm”:
“Limo chêng karring he yua,
Limo chêng achiang he tranik.”
(Có bao nhiêu hàng rào, ta dùng hết,
Có bao nhiêu con voi, ta cưỡi làm bạn chiến đấu).
Và cả góp sức, góp trí, tương trợ nhau “chung lưng”, tìm vùng đất “bằng phẳng” để tăng gia sản xuất, để “nuôi cách mạng”, “nuôi bộ đội”:
“Dang Bak yua ikoónh ikăn ape chua tarroot itang iklúng,
Takrău krăk kreang ibăn tikúng kach mang,
Ngai yua ikoónh ikăn ape chua pachúng,
itang klung tang roong, klang mong,
Ikrong bui sur, ibăn ape tăk tarchâl.”
(Đảng, Bác bảo cha mẹ các anh lui về vùng bằng phẳng,
Cùng chung lưng sản xuất nuôi cách mạng,
Đảng, Bác bảo cha mẹ các anh dồn về vùng phẳng
vùng có nhà rông, nhà mong,
Gác buồn vui để nuôi bộ đội.)
1.1.5. Cổ vũ tinh thần phản kháng mạnh mẽ, giữ vững hậu phương
Sự phản kháng không chỉ thể hiện trong quyết tâm đánh giặc mà còn là thái độ triệt để với mọi thứ xấu xa, lạc hậu - gắn với biểu tượng “vứt lên non”, “vứt xuống biển”:
“Ado i-oi mbâl mbich chêng he vât âi kakong, tapun Bak,
Ado i-oi mbâl mbich chêng he palong âi dak mut, tapun kach mang.”
(Cái gì xấu xa thì chúng ta vứt hết lên non, theo Bác,
Những gì xấu xa thì chúng ta vứt hết xuống biển, theo cách mạng).
Nội dung này cũng đi liền với khẩu hiệu đoàn kết giữ vững hậu phương miền núi:
“Tarchâl livứng ras pakkong,
Măq akâi vas parmoóng nghe”
(Chiến tranh biến thành non núi trọc,
Bây giờ là nơi sinh sống của chúng ta)
1.1.6. Thể hiện tình yêu đôi lứa gắn với lý tưởng cách mạng
Ca dao Tà Ôi không quên màu sắc trữ tình, phản ánh tình yêu lứa đôi giữa mùa kháng chiến. Tình yêu được gắn với sự đồng hành và niềm tin vào thắng lợi:
“Lom a-em lalleéq déng nhim,
Lom kalang ano tantôl val vil.”
(Lòng em nghẹn ngào khóc,
Lòng nhớ anh xao xuyến khôn nguôi.)
“Parhăi kach mang, a-em parhăi”
(Nỗi nhớ cách mạng, nhớ em được đánh thức.)
Tình yêu không chỉ là nhớ thương cá nhân mà còn nâng tầm thành lý tưởng:
“Ku lâi kach mang akính ikoónh iming…
Pani kach mang na pani bui êm.”
(Em xem cách mạng như cha như anh…
Lý tưởng cách mạng là lý tưởng yên vui.)
1.2. Cổ động phong trào xây dựng cuộc sống mới
Ca dao dân tộc Tà Ôi về chủ đề xây dựng cuộc sống mới - nông thôn mới phản ánh sâu sắc quá trình chuyển mình của cộng đồng miền núi từ xã hội truyền thống sang hiện đại. Trong đó, nội dung ca dao vừa ghi nhận công cuộc đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng cách mạng, vừa thể hiện khát vọng phát triển bền vững, tiến bộ nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc.
1.2.1. Ghi nhận vai trò của Đảng, Bác và thế hệ cách mạng tiền phong
Rất nhiều bài ca dao đề cao công lao của Đảng, Bác Hồ và lớp người đi trước, xem đó là nền tảng của cuộc sống mới. Lời ca thể hiện sự tri ân sâu sắc, đồng thời khẳng định lý tưởng “uống nước nhớ nguồn”:
“A-âm he jo vê tarlúk dak măt amoq, bâl aloi,
Aro he cha vê tarvâr alâng, nghang aham ama, ngkoq mmứng.”
(Ngô chúng ta xay có trộn lẫn nước mắt các chị, đừng quên,
Lúa chúng ta ăn có phần xương máu các cô, phải nhớ.)
Từ biểu tượng “hạt ngô, hạt lúa” gắn với mồ hôi, máu và nước mắt, ca dao không chỉ tái hiện quá khứ hào hùng mà còn gợi mở ý thức chính trị - đạo đức - văn hóa trong lòng người dân.
1.2.2. Cổ vũ cho tinh thần đổi mới, dấn thân, thực hành tiêu chí phát triển
Khác với ca dao cổ truyền vốn gắn liền nỗi buồn than thở, ca dao thời kỳ mới mang tinh thần lạc quan, tích cực, thực tiễn hóa lý tưởng cách mạng, vận động dân bản cùng “xắn tay” xây dựng cuộc sống mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
“Ngai yua he pasăp pasél michât takkeas nốh,
He payur noóng thôn tamme.”
(Người ta bảo chúng ta chăm chút mười chín tiêu chí,
Chúng ta dựng xây nông thôn mới.)
Nội dung ca dao thể hiện sự nắm bắt chính sách cấp nhà nước (19 tiêu chí), đồng thời phản ánh tinh thần chủ động nội sinh - người Tà Ôi không còn là “đối tượng cần trợ giúp” mà là “chủ thể hành động kiến tạo cuộc sống”.
1.2.3. Đề cao tinh thần cộng đồng, đoàn kết dân tộc - dân tộc
Ca dao Tà Ôi xây dựng nông thôn mới nổi bật ở tinh thần cộng đồng và liên kết dân tộc. Người Tà Ôi vừa tự lực, vừa biết sẻ chia, đồng hành với các dân tộc anh em để phát triển hài hòa. Câu ca dao:
“Adơơs nna tơan liroang,
Apoang Aroang, nna tơan lalơaq,
Kallơaq tarkop tâi,
Kalloah kallâng muíh, nna kallăq ntai.”
(A Đớt thì thật là thanh,
A Roàng cũng thật là đảm,
Điểm tựa để bắt tay nhau,
Thông một con đường thênh thang)
ca ngợi mối quan hệ gắn bó giữa hai xã cùng phát triển.
Bên cạnh đó, bài:
“Yoan tang chilang kăn abơơnh,
He tơơnh chiboók atoók pardin.”
(Người Kinh làm bờ vai tựa,
Chúng ta khơi mạch ngầm, dòng đoác chảy xuôi)
thể hiện sự đoàn kết dân tộc - cùng nhau phát triển, hội nhập trong tinh thần đại đoàn kết toàn dân.
1.2.4. Biểu hiện khát vọng dân chủ, tiến bộ và hội nhập
Ca dao không ngần ngại thể hiện những yêu cầu đổi mới tư duy, từ việc chọn cán bộ cho đến quy hoạch cộng đồng:
“Bâl he piklu nnông Dang,
Bâl he lôi kang Bak Hô,
He su ka-op areas o chihai…”
(Chúng ta đừng chệch đường Đảng dẫn,
Chúng ta đừng quên lời Bác Hồ,
Chúng ta tìm kiếm người lãnh đạo tài…)
Ở đây, dân bản đã bắt đầu có ý thức dân chủ - tham gia quản trị cộng đồng - không phải chờ ban ơn từ trên, mà cùng nhau chọn người xứng đáng. Đây là tín hiệu cho thấy ca dao đang phản ánh tiến trình hiện đại hóa tư duy chính trị.
1.2.5. Chuyển biến trong nhận thức về lối sống, văn hóa vệ sinh - sản xuất - thẩm mỹ
Ca dao không chỉ vận động chung chung mà đi vào từng khía cạnh cụ thể của đời sống mới như vệ sinh, trồng hoa, chăn nuôi, làm đẹp cảnh quan:
“Ipis ikhoa déng dak lauq yyăq a-ăi amăng,
Ităk parloóp ităk karchăng ulêk lom ulêk karrnóq.”
(Quét dọn nhà cửa sạch kẻo bị ốm đau,
Trêu đùa pha cười thấu lòng thấu nghĩ suy.)
Những hình ảnh như “lau nhà - trồng cây - nuôi gà - cười đùa văn minh” cho thấy chuyển biến văn hóa ứng xử mới, mang tinh thần “xanh - sạch - đẹp - bền vững”.
1.2.6. Khẳng định tư duy tích cực - dám thất bại để thành công
Ca dao còn thể hiện tư duy phát triển hiện đại: chấp nhận khó khăn, thất bại trong tiến trình kiến thiết, thay vì than vãn hay bảo thủ:
“Anăq ték nnâk abâm yyăq nhăng chihoot,
Kalang a-em ntơâ lalâng inhơa chao kơ…”
(Dẫu đến dốc gầm, hai ta không hề thét,
Nhớ thương em, dẫu hai ta cùng chào cờ…)
Từ hình ảnh “dốc gầm”, “cờ”, “tình yêu” - ca dao cho thấy người Tà Ôi tiếp nhận đổi mới bằng ý chí kiên cường, kết hợp lý tưởng cách mạng và đời sống cá nhân một cách dung hòa.
1.2.7. Cấu trúc lại hệ giá trị truyền thống trong bối cảnh mới
Ca dao Tà Ôi trong chủ đề xây dựng cuộc sống mới - nông thôn mới không chỉ là công cụ cổ động, mà còn là hình thức tái cấu trúc bản sắc văn hóa trong bối cảnh đổi mới. Các câu ca như “Người khôn khéo được trọng” khẳng định trí tuệ bản địa; “Không để ai sống tù túng” phê phán bảo thủ; “Người ta bảo… chúng ta làm…” thể hiện sự dung hòa giữa chỉ đạo Nhà nước và ý chí cộng đồng. Đây là minh chứng cho chuyển động nội tại trong hệ giá trị Tà Ôi.
Ca dao phản ánh sự chuyển mình từ tự cung sang phát triển, tinh thần hợp tác - hội nhập, và khát vọng văn minh - bền vững. Qua đó, ca dao trở thành cầu nối giữa truyền thống và hiện đại, là tiếng nói văn hóa - tư tưởng giàu bản sắc, thể hiện bản lĩnh và khả năng thích ứng mạnh mẽ của người Tà Ôi trong thời kỳ đổi mới.
2. Giá trị nghệ thuật
Ca dao dân tộc Tà Ôi thuộc chủ đề Cổ động phong trào cách mạng và xây dựng cuộc sống mới không chỉ giàu giá trị nội dung mà còn nổi bật về mặt nghệ thuật. Các bài ca thường sử dụng hình thức diễn xướng dân gian đặc trưng như điệu cà-lơi, ba-bói, kết hợp linh hoạt giữa vần và nhịp, tạo hiệu ứng truyền cảm mạnh mẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, gần gũi đời sống, nhưng giàu sức biểu tượng và khả năng khơi dậy cảm xúc cộng đồng. Nhiều hình ảnh gắn liền với hiện thực chiến đấu - sản xuất được đưa vào một cách sinh động. Biện pháp lặp từ, cấu trúc đối xứng, từ láy giàu tính gợi hình, cùng tu từ như so sánh, ẩn dụ… được vận dụng hài hòa, làm nên vẻ mộc mạc mà sâu sắc.
Kết cấu ca dao thường rõ ràng, có phần kết mang tính khẩu hiệu, thể hiện đặc trưng thời đại. Nhìn chung, giá trị nghệ thuật của mảng ca dao này không chỉ kế thừa truyền thống mà còn phản ánh sự thích nghi sáng tạo của văn học dân gian Tà Ôi trước những biến chuyển của lịch sử - xã hội hiện đại.
2.1. Cổ động phong trào cách mạng
2.1.1. Sử dụng thể song thất, lục bát biến thể và hình thức nhịp nhàng đặc trưng
Ca dao Tà Ôi sử dụng nhịp điệu linh hoạt (5-6-7 âm tiết), kết hợp với nhịp chẵn và điệp từ để tạo nhạc tính và hiệu ứng tâm lý tập thể:
“Takkui ulauq tăk vê Dang kir,
Takkui palleng tăk vê Nha nươk ayô,
Iséng kang Bak iséng kalang,
Iséng kang Dang iséng ayô…”
(Người làm tốt có Đảng trọng,
Người làm chăm có Nhà nước khen,
Lời Bác dạy luôn ghi nhớ,
Lời Đảng răn chớ nhãng xao…).
Nhịp nhanh, thúc giục hành động.
2.1.2. Biểu tượng văn hóa dân gian phong phú
Biểu tượng lúa, ngô, khăn, bếp lửa, dòng sông, đồi núi… xuất hiện nhiều lần vừa mang tính dân tộc, vừa gợi hình ảnh quen thuộc gắn với cuộc kháng chiến:
“A-âm he jo vê tarlúk dak măt amoq,
Aro he cha vê tarvâr alâng, nghang aham ama”
(Ngô chúng ta xay có trộn lẫn nước mắt các chị…
Chiếc khăn quàng lại dành đắp lúa cho mẹ…)
2.1.3. Dụng ngữ địa phương và cấu trúc thơ bản địa
Việc giữ nguyên nhiều cụm từ gốc Tà Ôi (như “takkui - người”, “tarma - con bệnh”, “Bak - Bác Hồ”, “pikon - giặc”, “déng - nhà”, “karrong - hàng rào”,…) tạo ra sắc thái bản địa hóa cao, mang lại màu sắc độc đáo và nhấn mạnh tính chất văn học dân gian dân tộc thiểu số.
2.1.4. Giọng điệu linh hoạt: từ trầm hùng đến tha thiết trữ tình
Giọng điệu ca dao dao động giữa các cung bậc cảm xúc - có khi thiết tha luyến nhớ, có khi hào hùng cổ vũ, có khi sâu sắc tri ân. Chính điều này khiến ca dao Tà Ôi về cách mạng không đơn thuần là tuyên truyền, mà là bức tranh cảm xúc tập thể của một cộng đồng người.
Ca dao dân tộc Tà Ôi về cổ động phong trào cách mạng là bộ phận đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian dân tộc thiểu số. Bằng những hình ảnh gần gũi, giọng điệu tha thiết, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng cách mạng và biểu tượng văn hóa dân gian, loại hình ca dao này đã khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí đấu tranh và tinh thần cộng đồng dân tộc, xứng đáng được bảo tồn, nghiên cứu và phát huy trong đời sống văn hóa - giáo dục hôm nay.
2.2. Cổ động phong trào xây dựng cuộc sống mới
Ca dao dân tộc Tà Ôi cổ động xây dựng cuộc sống mới, nông thôn mới không chỉ mang giá trị nội dung sâu sắc, gắn liền với chủ trương chính sách và đời sống hiện đại, mà còn thể hiện giá trị nghệ thuật đặc sắc, đậm chất dân gian, bản địa, phản ánh quá trình dân tộc thiểu số tiếp biến văn hóa và vận động xã hội.
2.2.1. Ngôn ngữ dân tộc thiểu số mang tính biểu cảm cao
Một nét nổi bật trong hệ thống ca dao này là việc giữ nguyên các từ ngữ bản địa Tà Ôi, tạo ra sự chân thực ngôn ngữ và sắc thái văn hóa tộc người. Những từ như “takkui”, “bôn”, “Dang”, “kalăng”, “parjang”, “dông”, “kang”, “tamme”… vừa mang tính chất khái niệm mới (liên quan đến Đảng, Nhà nước, nông thôn mới), vừa tạo được tính cộng cảm bản địa.
“Dang poat ahe kính mpeéch,
O yua he muíh kalai he muíh parjang…”
(Đảng nặn chúng ta thành máu,
Đảng bảo chúng ta cùng hội cùng thuyền…)
Ở đây, từ “poat” (nặn), “parjang” (thuyền), “kalai” (hội) vừa gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt, vừa mang tính tượng trưng - nghệ thuật cao.
2.2.2. Hình thức lối nói quen thuộc: song hành, đối lập, điệp cấu trúc
Giá trị nghệ thuật còn thể hiện qua hình thức lặp cấu trúc - đối sóng ý, một thủ pháp dân gian đặc thù. Các dòng ca dao thường có sự đối xứng giữa các vế, tạo nhịp đều đặn và dễ nhớ, dễ truyền khẩu trong cộng đồng:
“Takkui tambeéch takkui tammanh,
Chom dông nnoong Dang nnoong kach mang…”
(Người khôn người khéo,
Biết dẫn lối Đảng, đường cách mạng…)
Cấu trúc “takkui… takkui”, “nnoong… nnoong” là điệp cú pháp, điệp ngữ thể hiện nghệ thuật hô ứng tư tưởng - biểu hiện niềm tin vào Đảng và trí tuệ của người biết “dắt đường, mở lối”.
“Idok rôs sasai o tapbeéch,
Idok rôs sasai o kalăng.”
(Chọn lựa tướng lĩnh khôn khéo,
Chọn lựa tướng lĩnh tinh anh).
Ở đây, vế lặp không chỉ về âm điệu mà còn mở rộng ngữ nghĩa, làm nổi bật tiêu chí lựa chọn người tài phục vụ dân làng trong quá trình hiện đại hóa nông thôn.
2.2.3. Sử dụng hình ảnh biểu tượng văn hóa địa phương
Ca dao Tà Ôi sử dụng nhiều hình ảnh gần gũi với đời sống đồng bào miền núi như: ngô, lúa, hang, sợi, váy, bờ vai, dòng đoác, nhà rông, nương rẫy…. Những biểu tượng ấy không chỉ miêu tả hiện thực mà còn có tính biểu cảm - biểu trưng cao cho sự thay đổi về đời sống và ý thức xã hội:
“A-âm he jo vê tarlúk dak măt amoq…”
(Ngô chúng ta xay có trộn lẫn nước mắt các chị…)
“Yoan tang chilang kăn abơơnh,
He tơơnh chiboók atoók pardin.”
(Người Kinh làm bờ vai tựa,
Chúng ta khơi mạch ngầm, dòng đoác chảy xuôi.)
Hình ảnh bờ vai - biểu tượng của liên kết; dòng đoác - biểu tượng của dòng chảy văn hóa - mang tính ẩn dụ nghệ thuật rõ nét.
2.2.4. Nhạc tính dân gian - tiết tấu đặc trưng vùng miền
Ca dao Tà Ôi sử dụng nhịp thơ không đều (từ 4 đến 8 âm tiết), nhưng có đặc điểm nhịp chẵn, ngắt đôi rõ ràng, phù hợp với lối hát giao duyên, tục kể sử thi, tục hò, và lễ hội dân gian của người Tà Ôi.
“Ơi nông thôn tamme,
Ngai yua ibăn ikon bâl seeng bâl om,
Ngai yua ibăn ikon bâl nhom bâl dor…”
(Ơi nông thôn mới,
Người ta bảo nuôi con đừng ốm còi,
Người ta bảo nuôi con đừng non yếu…)
Âm hưởng ngân dài, nhấn mạnh cuối câu, tạo thành dòng chảy nhạc tính dễ đi vào lòng người dân trong những buổi sinh hoạt cộng đồng.
2.2.5. Giọng điệu lạc quan, chuyển biến từ trầm tư sang hành động
Nếu ca dao cách mạng thiên về giọng hùng tráng và bi thương, thì ca dao xây dựng nông thôn mới lại thể hiện giọng điệu lạc quan, tỉnh táo, hướng tới hành động tập thể. Những câu như:
“Ngai yua he dóng kateak kanai,
Ngai tăk kallâng utih kallâng uklang”
(Người ta bảo chúng ta hiến đất đai,
Người ta làm đường thẳng tắp, rộng rãi.)
Cho thấy tinh thần chủ động, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích cộng đồng - một giọng điệu mới trong thơ dân gian hiện đại hóa.
Giọng điệu này cũng linh hoạt từ răn dạy nghiêm trang đến khích lệ thân mật, đặc biệt khi lồng ghép hình ảnh trai gái, người già trẻ nhỏ trong cùng công việc phát triển cộng đồng:
“Júh bôn băr icha ibăn asiu traha trahoi,
Júh bôn parnha partao irôi ntroi ibăn alík tra kulăm.”
(Muốn có cái ăn thì nuôi cá hàng đàn,
Muốn được giàu sang thì nuôi gà lợn hàng trăm con.)
Cách nói bình dân, thực tế, dễ hiểu, giàu tính vận động.
2.2.6. Kết cấu đa tầng, tích hợp thông điệp chính sách thành nghệ thuật dân gian
Ca dao Tà Ôi đã tích hợp khéo léo nội dung các tiêu chí nông thôn mới như: vệ sinh, giáo dục, sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, giữ gìn đoàn kết… thành ngôn ngữ nghệ thuật, tạo sức lan tỏa hiệu quả trong cộng đồng:
“Ipis ikhoa déng dak lauq yyăq a-ăi amăng,
Ităk parloóp ităk karchăng ulêk lom ulêk karrnóq.”
(Quét dọn nhà cửa sạch kẻo bị ốm đau,
Trêu đùa pha cười thấu lòng thấu nghĩ suy.)
Rõ ràng, từ hành vi cụ thể → dẫn đến ý thức sống → mở rộng thành triết lý cộng đồng.
Ca dao Tà Ôi về xây dựng cuộc sống mới và nông thôn mới không chỉ có giá trị như một hình thức tuyên truyền chủ trương chính sách, mà còn mang giá trị văn học dân gian đặc sắc, phản ánh sự chuyển mình của văn hóa tộc người thiểu số trong dòng chảy cách mạng và hiện đại hóa. Nghệ thuật ca dao ở đây là sự hòa quyện giữa ngôn ngữ bản địa, hình ảnh biểu tượng dân gian, giọng điệu cộng cảm và kết cấu chặt chẽ, phù hợp với môi trường diễn xướng truyền khẩu - truyền cảm hứng cộng đồng.
3. So sánh giá trị nghệ thuật giữa hai tiểu chủ đề
3.1. Điểm tương đồng nghệ thuật
3.1.1. Ngôn ngữ biểu cảm dân tộc, giàu nhạc tính
Cả hai tiểu chủ đề đều sử dụng ngôn ngữ Tà Ôi bản địa một cách trọn vẹn, kết hợp với tiết tấu dân gian truyền miệng. Nhịp thơ thường ngắn gọn, ngắt đôi, dễ thuộc - thuận lợi cho hát đối đáp, kể khan/sử thi, tục ngữ, giao duyên trong đời sống hằng ngày. Ví dụ:
Cách mạng:
“Dang poat ahe kính mpeéch,
O yua he muíh kalai he muíh parjang…”
Và Cuộc sống mới:
“Ngai yua he choóh sâk tíh trus ti tring karring karrong…”
Nhịp thơ tương đồng về tiết tấu, âm hưởng dân tộc, dễ truyền đạt từ già đến trẻ, từ nhà rông đến bến nước.
3.1.2. Giọng điệu khích lệ - hướng về cộng đồng
Dù đề tài khác nhau (chiến đấu - xây dựng), cả hai tiểu chủ đề ca dao đều thể hiện giọng điệu tích cực, thôi thúc hành động, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng:
Cách mạng: giọng bi tráng - hào hùng - cảm thương → dẫn đến ý chí chiến đấu.
Cuộc sống mới - Nông thôn mới: giọng nhẹ nhàng - vui tươi - lý giải thuyết phục → hành vi xây dựng.
Cả hai đều hướng đến giá trị “vì cộng đồng - vì tương lai”, làm bật lên phẩm chất “công dân mới” trong xã hội hiện đại hóa.
3.1.3. Tích hợp nội dung hiện đại vào hình thức dân gian
Đây là nét đặc biệt của ca dao Tà Ôi hiện đại: chuyển hóa nội dung chính sách - cách mạng - phát triển thành hình thức truyền thống. Thay vì áp đặt khẩu hiệu, người Tà Ôi đã “dân gian hóa” tinh thần thời đại:
“He dok mpoat ntreéch kang areas sasai utreas nténg”
(Chúng ta ghi nhớ lời lãnh đạo cấp cao)
“Kapal dêq quôk nnâq tuch nna, tuch tappa”
(Giặc cướp cơm cướp thức ăn)
Rõ ràng, cả hai tiểu chủ đề đều cho thấy sự “nội hóa tư tưởng lớn” bằng ngôn ngữ tộc người, làm mềm hóa quá trình chính trị - hành chính trong đời sống văn hóa dân gian.
3.2. Khác biệt nghệ thuật đặc trưng theo từng tiểu chủ đề
4. Tổng quát về ca dao cổ động trong văn học dân gian dân tộc Tà Ôi
4.1. Vai trò đặc biệt của ca dao cổ động trong kho tàng văn học Tà Ôi
Ca dao cổ động giữ vai trò đặc biệt trong văn học dân gian hiện đại của người Tà Ôi, gắn bó mật thiết với lịch sử đấu tranh cách mạng và công cuộc phát triển xã hội. Thể loại này không chỉ đơn thuần là công cụ tuyên truyền, mà còn là hình thức nghệ thuật dân gian mang tính tư tưởng sâu sắc. Nó thể hiện sự giao thoa giữa tinh thần dân tộc thiểu số và tư tưởng thời đại, giữa tiếng nói cá nhân và ý chí cộng đồng, giữa hình thức truyền thống và nội dung cách mạng.
4.2. Giá trị nội dung: Gắn chặt lịch sử - xã hội - văn hóa
Nội dung của ca dao cổ động Tà Ôi được phản ánh qua hai tiểu chủ đề chính: Cổ động cách mạng làm sống dậy tinh thần chiến đấu, lòng biết ơn, lý tưởng cộng sản và khát vọng giải phóng dân tộc; Xây dựng nông thôn mới đề cao tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, nâng cao dân trí và giữ gìn bản sắc văn hóa.
Ca dao Tà Ôi trở thành tiếng nói lịch sử, ghi dấu vai trò chủ thể của người miền núi trong tiến trình làm chủ đất nước và kiến tạo xã hội mới.
4.3. Giá trị nghệ thuật: Kết tinh giữa truyền thống và đổi mới
Về nghệ thuật, ca dao cổ động là minh chứng cho sức sống bền bỉ và khả năng đổi mới của văn học dân gian. Người Tà Ôi đã sáng tạo nên những lời ca vừa dân dã vừa hàm chứa lý tưởng cách mạng, biến khẩu hiệu thành thi ca, chính sách thành đời sống văn hóa. Với đặc điểm nhạc tính truyền khẩu, hình ảnh bản địa, và giọng điệu sinh động, ca dao cổ động thể hiện giá trị văn hóa - tư tưởng và tính thẩm mỹ - thực hành xã hội sâu sắc.
Kết luận
Ca dao cổ động của người Tà Ôi, đặc biệt trong chủ đề “Cổ động phong trào cách mạng và xây dựng cuộc sống mới”, là một bộ phận đặc sắc của văn học dân gian, hàm chứa giá trị tư tưởng và thẩm mỹ sâu sắc. Với hình thức mộc mạc nhưng hàm súc, các bài ca dao không chỉ phản ánh hiện thực lịch sử mà còn truyền tải tinh thần lạc quan, ý chí vươn lên của cộng đồng, góp phần động viên đồng bào tham gia kháng chiến và kiến thiết quê hương.
Từ nội dung đến nghệ thuật, ca dao Tà Ôi thể hiện sự gắn bó giữa đời sống tinh thần và chính trị - xã hội, đồng thời kết tinh phong cách dân gian nguyên hợp: kết hợp kể và hát, nhịp điệu và biểu tượng nghệ thuật, tạo nên một hệ hình ngôn ngữ đặc thù, đậm tính cộng đồng và biểu cảm.
Công trình nghiên cứu này xem ca dao Tà Ôi như một hình thức folklore tiêu biểu, qua đó lý giải mối liên hệ giữa ký ức tập thể và lý tưởng dân tộc, giữa chức năng nhận thức và thẩm mỹ. Việc nghiên cứu không chỉ khẳng định vị thế của ca dao Tà Ôi trong văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị tinh thần của loại hình nghệ thuật truyền khẩu này như một di sản văn hóa phi vật thể mang bản sắc đặc trưng trong thời đại phát triển bền vững.
K.S
(TCSH439/09-2025)
____________________
Tài liệu tham khảo:
1. Lại Nguyên Ân - Bùi Văn Trọng Cường, Từ điển Văn học Việt Nam, quyển 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội - 1995, tr. 37 - 39.
2. Triều Nguyên, Tổng tập Văn học dân gian xứ Huế, Tập V - Ca Dao, Nxb. Thuận Hóa, Huế - 2012, tr.7.
3. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển Thuật ngữ Văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội - 1992, tr. 22 - 23.
4. Nguyễn Thị Sửu, Cao dao dân tộc Tà Ôi (song ngữ Tà Ôi - Việt), quyển 1 và 2, Nxb. Hội Nhà văn, 2020.
5. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ Điển Bách khoa Việt Nam, 1, Nxb. Từ điển Bách khoa, HN - 2005, tr. 387.