ĐINH VĂN TUẤN
1. Mở đầu
Xưa nay tiểu sử Đoàn Thị Điểm, tác giả Truyền kỳ tân phả (Hán) và Chinh phụ ngâm (Nôm) được các văn nhân, nhà biên khảo theo tri thức chủ quan, hạn chế của mình nên đã viết không đồng nhất về tiểu sử Đoàn Thị Điểm. Do đó đã làm nảy sinh các vấn đề về tên họ, sinh quán…1 của nữ sĩ.
Chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu lại vấn đề qua việc khảo sát các tài liệu cổ liên quan đến Đoàn Thị Điểm để xác định một cách tương đối đâu là sự thật liên quan đến tiểu sử của Đoàn Thị Điểm.
2. Khảo về họ tên
Ngoài họ tên Đoàn Thị Điểm 段氏點 (họ Đoàn 段) ra, vẫn còn lưu truyền một tên gọi khác đó là Nguyễn Thị Điểm 阮氏點 (họ Nguyễn 阮), vậy đâu là tên họ thật của bà Điểm?
Sách Tang thương ngẫu lục 桑滄偶錄 2 do Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án biên soạn, bài Nguyễn công á phu nhân 阮公亞夫人 đã gọi tên là Đoàn Thị Điểm 段氏點, sau đến Chinh phụ ngâm bị lục 征婦吟備錄, Long Hòa3 khắc in năm 1902, tờ bìa xác nhận: 段夫人點演音 (Phu nhân họ Đoàn tên là Điểm diễn âm). Trúc Khê Ngô Văn Triện4 vào năm 1943 phát hiện ra Đoàn thị thực lục 段氏寔錄, đã xác định Hồng Hà phu nhân 紅霞夫人 họ Đoàn 段, húy Điểm 點 – Đoàn (Thị) Điểm - con của Đoàn Doãn Nghi, em gái Đoàn Doãn Luân, ở phần nguyên chú5 Hồng Hà phu nhân 紅霞夫人 cũng ghi rõ: “Phu nhân họ Đoàn, húy Điểm, em gái Giải nguyên Kinh Bắc Đoàn Doãn Luân, con gái (chỉ) Điển bạ Dương Kinh tiên sinh Doãn Nghi, kế thất Tiến sĩ Thị lang Nguyễn Kiều và theo Hồng Hà Phu nhân di văn 紅霞夫人貽文 (Văn chương còn lại của Hồng Hà Phu nhân) là phần phụ biên của Đoàn thị thực lục, ở bài dẫn Phụng nghĩ bản đình phụng sự đối liễn văn 奉擬本亭奉事對聯文 (Vâng soạn câu đối thờ ở đình làng) có lời chú: “夫人姓諱點小字紅霞故黎監生允儀公之次女京北解元允倫公之妺也6” (Phu nhân họ Đoàn, húy Điểm, tiểu tự Hồng Hà, con gái thứ Giám sinh Doãn Nghi công, em gái Giải nguyên trường thi hương Kinh Bắc Doãn Luân công).
Nhưng ở các sách khác, Đoàn Thị Điểm đã từng được gọi tên là Nguyễn Thị Điểm (họ Nguyễn 阮) như Đăng khoa lục sưu giảng 登 科 錄 搜 講7 đã cho biết Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân 阮卓倫8 có người em gái là Nguyễn Thị Điểm 阮氏點, Sơn cư tạp thuật 山居雜述9 cũng đã gọi tên là Nguyễn Thị Điểm. Đặc biệt là Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí 歷朝憲章類誌10 từng gọi nữ học sĩ, tác giả Tục truyền kỳ 續傳奇 với họ Nguyễn 阮, lưu ý là năm 1811 sách Tục truyền kỳ và Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜 đã được khắc in và ở tờ bìa đã ghi rõ: 紅霞段夫人著 (Hồng Hà Đoàn Phu nhân sáng tác) nhưng không hiểu vì sao Phan Huy Chú lại cho bà Điểm họ Nguyễn 阮11? Xuyết thập tạp ký 掇拾雜記12 của Lý Văn Phức cũng đã gọi tên là Nguyễn Thị Ngọc Điểm 阮氏玉點13. Các sách như Quốc văn tùng ký 國文叢記 của Nguyễn Văn San14 (1808 - 1883); Đại Nam kì truyện 大南奇傳15; Nam thiên trân dị tập16 南天 珍異集; Hát Đông thư dị 喝東書異17 của Nguyễn Thượng Hiền cũng đều gọi tên là Nguyễn Thị Điểm 阮氏點. Sau này các sách Quốc ngữ về Chinh phụ ngâm (Phan Kế Bính, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đỗ Mục…) cũng gọi tên Nguyễn Thị Điểm.
Nguyên nhân nào dẫn đến họ Đoàn 段 ra họ Nguyễn 阮? Xét Đăng khoa lục sưu giảng ghi nhận Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân 阮卓倫 quê quán ở làng Bình Lao, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương nhưng theo Đoàn thị thực lục thì Đoàn Thị Điểm là em gái của Giải nguyên Đoàn Doãn Luân 段允倫 người xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, trấn Kinh Bắc. Như vậy có khả năng:
1. Các sách Đăng khoa lục sưu giảng (và Sơn cư tạp thuật…) có thể đã tin rằng: vì bà Điểm là tác giả Tục truyền kỳ (Truyền kỳ tân phả) rất nổi tiếng nên chắc chắn là em gái ông Luân, Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân người Hải Dương chứ không thể nào là em gái ông Luân, Đoàn Doãn Luân chỉ đỗ Giải nguyên người Kinh Bắc, cho nên bà Điểm dĩ nhiên mang họ Nguyễn.
2. Có thể Nguyễn Trác Luân cũng có người em gái tên là Thị Điểm (họ Nguyễn) trùng tên với Thị Điểm (họ Đoàn) là em gái Đoàn Doãn Luân nên các tác giả Đăng khoa lục sưu giảng… lầm Nguyễn Thị Điểm là tác giả Truyền kỳ tân phả.
Theo chúng tôi, khả năng đầu là hợp lý hơn vì không có bằng chứng nào trong thư tịch cổ xác nhận Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân có người em gái tên là Nguyễn Thị Điểm. Trùng tên người anh thì có thể nhưng trùng tên cả người anh và người em gái thì thật khó tin có thể xảy ra. Chính vì Đoàn Thị Điểm người trấn Kinh Bắc có anh là Đoàn Doãn Luân nhưng chỉ đỗ Tỉnh nguyên18 nên người đời ít biết đến hơn là Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân người trấn Hải Dương. Theo Đoàn thị thực lục, cha Đoàn Thị Điểm là Đoàn Doãn Nghi (dạy học ở Hải Dương) mất, gia đình đưa di hài về quê quán (Kinh Bắc) chôn cất và sau khi mãn tang, Đoàn Thị Điểm đã đưa mẹ về sống chung nhà với anh Đoàn Doãn Luân và chị dâu cùng các cháu ở Đường Hào, Hải Dương. Lưu ý, địa điểm Hải Dương trùng với sinh quán của Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân (Đường Hào, Hải Dương) càng khiến người đời ngộ nhận Đoàn Thị Điểm ở Hải Dương là em gái Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân ở Hải Dương. Nên người sau cứ tin rằng bà Điểm nổi tiếng với tác phẩm Truyền kỳ tân phả và các giai thoại văn chương là Nguyễn Thị Điểm, em gái của Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân quê quán ở làng Bình Lao, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương.
Ngoài ra, trong Nguyễn Thị Điểm ký 阮氏點記 (Đại Nam hiển ứng truyện) lại có sự nhầm lẫn như sau: Thị Điểm người Đường Hào, Hải Dương là em gái ông Giám sinh Nguyễn Trác Luân (Nam thiên trân dị tập cũng viết như thế), rõ ràng ở đây nhầm lẫn về học vị “Tiến sĩ” của Nguyễn Trác Luân ra “Giám sinh” của Đoàn Doãn Luân, còn Sơn cư tạp thuật lại ghi: Nguyễn Thị Điểm người Hiến Phạm, Văn Giang, em gái Giải nguyên Nguyễn Luân, ở đây về sinh quán và Giải nguyên Luân đều đúng nhưng chỉ sai họ, thay vì “Đoàn” 段 lại thành ra “Nguyễn” 阮!19
Như vậy bà Điểm họ Đoàn 段 bị gọi là họ Nguyễn 阮 nguyên nhân vì Đoàn Thị Điểm đã từng cư ngụ, dạy học ở Hải Dương và bà Điểm lại nổi tiếng với tác phẩm Truyền kỳ tân phả nên người đời đã ngộ nhận bà là em gái của Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân người Hải Dương (Đoàn Doãn Luân chỉ là Giám sinh nên người đời ít biết đến). Chúng tôi đặc biệt chú ý đến giai thoại về câu đối độc đáo giữa hai anh em Đoàn Thị Điểm từng được ghi chép trong Tang thương ngẫu lục, Đoàn thị thực lục và nhiều sách khác: Đoàn Doãn Luân ra câu đối: “照鏡畫眉一點翻成兩點” (Soi gương vẽ lông mày, một nét điểm hóa thành hai nét điểm - trùng tên Điểm 點 -) Đoàn Thị Điểm đối lại: “臨池玩月隻輪轉作雙輪” (Ra bờ ao ngắm trăng, một vầng (luân) hóa ra hai vầng (luân) - trùng tên Luân 輪 -). Điểm quan trọng ở đây là chữ luân 輪 trong câu đối của Đoàn Thị Điểm, theo nguyên chú của Hồng Hà Phu nhân di văn (Đoàn thị thực lục) và soạn giả khác cho rằng vì luân 輪 (bánh xe, vòng tròn) đồng âm với luân 倫 (thường, như luân thường) là tên của Đoàn Doãn Luân 段允倫 được ghi trong gia phả, nhưng thật ra đây là lý giải thô thiển vì Đoàn Thị Điểm nổi tiếng là tài năng kiệt xuất khó có thể đối ứng một cách vụng về, gượng ép khi dùng chữ luân 輪 đồng âm với luân 倫 ra tên của anh mình (không ứng với chữ điểm 點 đúng tên em gái ông Luân). Theo chúng tôi, dựa theo chữ luân 輪 trong câu đối có thể đoán định tên của anh Đoàn Thị Điểm chính là Luân 輪 (bộ 車) không phải là 倫 (bộ 亻). Vậy tại sao gia phả họ Đoàn lại viết luân 倫? Nguyên nhân có lẽ vì luân 輪 (bánh xe, vòng tròn) ý nghĩa tầm thường quá nên người sau viết gia phả đã sửa lại là luân 倫 (thường, như luân thường), Đoàn thị thực lục là văn bản được người sau chép lại qua nhiều đời, không còn bản gốc (do cháu rể Đoàn Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm biên soạn khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX) để đối chiếu, xác thực. Từ chữ Luân 輪 là tên của Đoàn Doãn Luân 段允輪 ta có thể xác định em gái của ông chính là Đoàn Thị Điểm 段氏點 (họ Đoàn 段) không phải là em gái của Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân 阮卓倫20, với tên Luân 倫 (thường, như luân thường), tên họ này là chính xác vì đã được khắc, in vào văn bia tiến sĩ đời Lê, thư tịch cổ. Ngay cả Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân cũng từng bị viết sai tên Luân là 輪 (đúng ra là 倫) như Đăng khoa lục sưu giảng, Đại Nam kỳ truyện. Qua giai thoại đối xướng của anh em Đoàn Thị Điểm, ta có thể khẳng định Đoàn Doãn Luân họ Đoàn 段, tên là Luân 輪 và có em gái là Thị Điểm 氏點 họ Đoàn 段. Tang thương ngẫu lục, Nam sử tập biên 南史集編21 viết đúng tên của Đoàn Doãn Luân là 輪, Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Quang Oánh cũng đã viết đúng tên anh của Đoàn Thị Điểm là Luân 輪.
Có lẽ chính vì những sự nhầm lẫn này là nguyên nhân dẫn đến sự việc Nguyễn Trác Cách, trưởng tộc họ Nguyễn Trác ở Hải Dương đã tin rằng, từ lâu trong dòng họ vẫn lưu truyền về giai thoại văn chương giữa người anh là Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân và người em gái là Nguyễn Thị Điểm và cũng cho rằng các tác phẩm Tục truyền kỳ và bản dịch Chinh phụ ngâm nổi tiếng cũng như các giai thoại văn chương là của bà Nguyễn Thị Điểm22. Thật ra dòng họ Nguyễn Trác cho đến nay, vẫn chưa đưa ra những bằng chứng thuyết phục về mối quan hệ anh em giữa Nguyễn Trác Luân và Nguyễn Thị Điểm mà chỉ dựa vào trí nhớ, khẩu truyền thì không thể tạo nên vấn đề mới có khả năng thay đổi được những bằng chứng xác đáng còn lại từ xưa đến nay liên quan đến thân thế và hành trạng em gái của Đoàn Doãn Luân là Đoàn Thị Điểm.
3. Khảo về quê quán
Thông tin về quê quán Đoàn Thị Điểm xưa nay vẫn chưa được nhất quán vì nhiều lý do như về tài liệu cổ không giống nhau, sự thay đổi về địa danh qua các triều đại. Hơn nữa, như trên đã luận giải, Đoàn Thị Điểm nguyên quán ở Văn Giang, Kinh Bắc nhưng vì sau khi mãn tang cha đã về cư ngụ tại nhà anh mình ở Đường Hào, Hải Dương nên đã bị người đời nhận lầm là em gái của Tiến sĩ Nguyễn Trác Luân cũng người Đường Hào, Hải Dương và vì thế bà Điểm mang họ Nguyễn, Nguyễn Thị Điểm, quê quán bị hiểu lầm là ở Hải Dương23. Chúng tôi thử tìm hiểu các tài liệu cổ đáng tin cậy để xác định quê quán của Đoàn Thị Điểm cho tường tận hơn.
Sách Tang thương ngẫu lục cho Đoàn Thị Điểm quê quán ở Bắc Giang24. Theo Đại Nam nhất thống chí 大南一統志25: tỉnh Bắc Ninh, đời Tiền Lê gọi là Bắc Giang, đời Trần là lộ Bắc Giang, đời Minh (1407) là châu Bắc Giang thuộc phủ Bắc Giang. Năm Thiệu Bình (1434-1439) là Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), đặt thừa tuyên Bắc Giang, năm thứ 10 (1469), đổi là (thừa tuyên) Kinh Bắc. Bản đồ năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đất này gọi là xứ Kinh Bắc, sau gọi là trấn. Vậy Bắc Giang chính là xứ, trấn Kinh Bắc. Tác giả Tang thương ngẫu lục gọi “Bắc Giang” vào đời Lê trước năm 1469 không thuộc thời đại của Đoàn Thị Điểm chẳng qua chỉ là theo văn phong hoài cổ. Thị lang Nguyễn Kiều (chồng của Đoàn Thị Điểm) qua bài Ngu tế văn 虞祭文 (Văn tế lễ mở cửa mộ)26 đã viết: “文江鍾秀” (Huyện Văn Giang là nơi hội tụ tinh hoa), Truyền kỳ tân phả (1811) ghi nhận: “文江紅霞段夫人著” (Hồng Hà Đoàn phu nhân người huyện Văn Giang trứ tác), các sách Sơn cư tạp thuật ghi nhận bà Điểm người xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang; Xuyết thập tạp ký ghi nhận bà Điểm người huyện Văn Giang. Như vậy Đoàn Thị Điểm có quê quán ở huyện Văn Giang trấn Kinh Bắc (Bắc Giang) là xác thực.
Đoàn thị thực lục không nói rõ về nguyên quán của Đoàn Thị Điểm (thật khác thường trong sách gia phả), chỉ có một chỗ cho biết: “Khoa thi hai ty quan27 Hải Dương tuyển chọn chặt chẽ, chỉ lấy 20 người xảo thông28, Doãn Nghi được điểm ưu đỗ nhất, đến khoa thi Hương lấy 20 người, ông cũng đỗ nhất, sau 19 người trong số đó đều nối nhau đỗ Tiến sĩ, riêng ông đỗ trúng trường chỉ giữ chức Điển bạ”29 (Hồng Hà phu nhân nghiêm phụ thần đạo bi ký 紅霞段夫嚴父神道碑記30 ghi hàm bát phẩm). Phần nguyên chú liên quan Hải Dương trong Đoàn thị thực lục ghi: Tổng Yên Phú lúc ấy thuộc Hải Dương. Lưu ý là Phụng nghĩ bản đình phụng sự đối liễn văn khi nói về địa danh “xứ Đồng Đao” đã chú: nay thuộc xã Yên Phú, bản tổng, theo Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX: xã Yên Phú thuộc tổng Yên Phú, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, xứ Kinh Bắc, như vậy tổng Yên Phú không thuộc trấn Hải Dương và thông tin từ nguyên chú này không phù hợp lịch sử. Đúng ra lúc ấy là khoa thi hương ở xứ Kinh Bắc như Phụng nghĩ bản đình phụng sự đối liễn văn có lời chú: “Phu nhân họ Đoàn, húy Điểm, tiểu tự Hồng Hà, con gái thứ Giám sinh Doãn Nghi công, em gái Giải nguyên trường thi hương Kinh Bắc Doãn Luân công”, rõ ràng là trường thi hương Kinh Bắc chứ không phải là trường thi hương Hải Dương. Có khả năng soạn giả Đoàn thị thực lục đã nhầm lẫn hay cho rằng Đoàn Doãn Nghi lúc bấy giờ đã dời về cư ngụ ở Hải Dương và thi hương trường Hải Dương?
Đoàn thị thực lục còn viết: “Bấy giờ học trò vùng Hải Đông (lộ Hải Đông - tên gọi đời Trần, sau là Hải Dương) từ lâu mộ danh tiếng của Doãn Nghi, mở trường mời ông dạy học. Do thế ông theo nguyện vọng sĩ tử đem gia đình đến ẩn cư dạy học ở vùng Nam Sách, Kinh Môn. Sau, năm 52 tuổi ông mất ở nơi dạy học; môn sinh truy đặt tên thụy là Ôn Thứ, hiệu là Kinh Môn tiên sinh, lập bia ghi lại sự trạng”. Nhưng theo Lê triều Thái học sinh Dương Kinh tiên sinh bi chí 黎朝太學生陽荊先生碑誌 (Văn mộ chí Dương Kinh tiên sinh, Thái học sinh triều Lê)31: Tiên sinh (Doãn Nghi) vốn họ Lê, đổi sang họ Đoàn, sinh năm Mậu Dần (1639, 1699)32, 52 tuổi mất ở Lạc Viên, An Dương33, Kỷ Dậu, Vĩnh Khánh nguyên niên (1729), tự Ôn Thứ, hiệu Dương Kinh tiên sinh, đưa linh cữu về quê, mộ táng ở gò Mả Chín34, bia do các môn sinh lập. Hồng Hà phu nhân nguyên chú cũng ghi nhận: “Phu nhân họ Đoàn, húy Điểm, em gái Giải nguyên Kinh Bắc Đoàn Doãn Luân, con gái Điển bạ Dương Kinh tiên sinh Doãn Nghi”. Vậy thực ra tên hiệu của Đoàn Doãn Nghi là “Dương Kinh tiên sinh” hay là “Kinh Môn tiên sinh”? Theo Đại Nam nhất thống chí: Tỉnh Hải Dương, đời Trần gọi là lộ Hồng, lộ Hải Đông, sau chia thành lộ Hồng Châu và phủ Nam Sách. Năm 1469, định bản đồ thiên hạ gọi là Thừa tuyên Hải Dương, gồm 4 phủ (Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn), 18 huyện. Phủ Nam Sách có 4 huyện: Bình Hà, Tân Minh, Thanh Lâm, Chí Linh; phủ Kinh Môn có 7 huyện: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi Dương, Thủy Đường, Kim Thành, An Dương. Bản đồ vẽ năm Hồng Đức thứ 21 (1490), gọi là xứ Hải Dương, sau gọi là trấn. Đời Mạc đem huyện Nghi Dương (phủ Kinh Môn) đặt làm Dương Kinh, cắt phủ Thuận An của Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình của Sơn Nam cho thuộc về Dương Kinh. Năm Quang Hưng nhà Lê (1578 - 1599) lại đổi thuộc về trấn cũ (Hải Dương và Sơn Nam). Như trên đã dẫn, Đoàn thị thực lục chỉ cho biết vị trí chung chung như lộ Hải Đông, phủ Nam Sách, phủ Kinh môn. Ta biết phủ Kinh Môn xưa thuộc lộ Hải Đông nhưng đây là tên gọi đời Trần, đời Hậu Lê là xứ, trấn Hải Dương. Lưu ý thời Đoàn Doãn Nghi (1679 - 1729) phủ “Kinh Môn” thuộc trấn Hải Dương. Đoàn Doãn Nghi mất ở xã Lạc Viên, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, nếu vậy tên hiệu “Kinh Môn tiên sinh” là đúng nhưng tại sao lại có tên hiệu “Dương Kinh tiên sinh”? Vì đời Mạc đem huyện Nghi Dương (phủ Kinh Môn) đặt làm Dương Kinh, đời Lê Trung Hưng lại đổi thuộc về trấn cũ Hải Dương nên thời Đoàn Doãn Nghi địa danh “Dương Kinh” đã mất. Có thể vì văn bia cũ đã mờ mòn, hư hỏng nên người trùng tu Lê triều Thái học sinh Dương Kinh tiên sinh bi chí đã suy đoán và sửa lại là “Dương Kinh tiên sinh” cho thêm phần cổ kính như học vị “Thái học sinh” ở đầu đề Văn mộ chí Dương Kinh tiên sinh, Thái học sinh triều Lê. Học vị Thái học sinh có từ đời Trần, vào đời Hậu Lê không còn dùng “Thái học sinh” nữa, chỉ dùng học vị Tiến sĩ. Nhưng vì đời Lê Trung Hưng còn gọi Quốc Tử Giám là Thái học viện nên “Thái học sinh” ở đây chỉ có nghĩa là học sinh trường Thái Học, Quốc Tử Giám mà thôi. Bài dẫn Phụng nghĩ bản đình phụng sự đối liễn văn đã gọi Đoàn Doãn Nghi là “Giám sinh” (học trò Quốc Tử Giám). Tang thương ngẫu lục đã từng gọi Đặng Trần Côn là “Thái học sinh” chứ thực ra ông chỉ đỗ Hương cống, hỏng thi Hội, vậy cách viết “Thái học sinh” chỉ học sinh trường Thái Học, Quốc Tử Giám là theo văn phong cổ kính.
Trong Văn mộ chí Dương Kinh tiên sinh, Thái học sinh triều Lê đã nêu tên các địa danh: “北省順州文縣憲範社” (xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, châu Thuận Yên, tỉnh Bắc Ninh) nhưng vào thời đại của Đoàn Doãn Nghi, lúc ấy không có địa danh cấp “tỉnh” mà chỉ có “xứ” hay “trấn”; “châu” không còn dùng, trên huyện Văn Giang phải là phủ Thuận Yên không thể là châu Thuận Yên. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX: xã Hiến Phạm, tổng Yên Phú, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, xứ Kinh Bắc. Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí 皇越一統輿地志35: xã Hiến Phạm, phủ Thuận Yên, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc. Đại Nam nhất thống chí cho biết bản đồ năm Hồng Đức thứ 21 (1490) gọi là xứ Kinh Bắc, sau gọi là trấn. Đến năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi tên là trấn Bắc Ninh, năm thứ 12 (1831) chỉ tỉnh, gọi là tỉnh Bắc Ninh. Cho nên cách gọi Bắc tỉnh 北省 ở Hồng Hà phu nhân nghiêm phụ thần đạo bi ký đã xác định văn bản được soạn thảo từ năm 1831 trở về sau, có thể là do khi trùng tu Văn mộ chí Dương Kinh tiên sinh, Thái học sinh triều Lê, trong đó bài minh có lạc khoản là Thời Vĩnh Khánh Kỷ Dậu Quý đông cốc nhật (Vĩnh Khánh ngày lành cuối đông năm Kỷ Dậu (1729)). Do người trùng tu, sao chép viết nhầm lẫn địa danh hành chính, đúng ra nếu gọi “Bắc tỉnh” sẽ là: xã Giai Phạm, tổng Yên Phú, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, tỉnh Bắc Ninh. Còn nếu gọi “Hiến Phạm xã” sẽ là xã Hiến Phạm, tổng Yên Phú, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, xứ Kinh Bắc.
Tóm lại, vào thời Lê - Trịnh, quê quán Đoàn Thị Điểm ở xã Hiến Phạm, tổng Yên Phú, huyện Văn Giang, phủ Thuận Yên, xứ Kinh Bắc. Riêng địa danh Hiến Phạm 憲範, theo Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí, đời Gia Long là xã Hiến Phạm, phủ Thuận Yên, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc, Đồng Khánh địa dư chí 同慶地輿志36 ghi nhận: Tỉnh Bắc Ninh, Thuận Thành phân phủ37, thống hạt huyện Văn Giang, tổng Yên Phú, xã Giai Phạm 楷範38.
Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, gồm 4 huyện, trong đó có huyện Yên Mỹ thành lập từ một số tổng thuộc huyện Đông Yên, Ân Thi của tỉnh Hưng Yên; một số tổng thuộc huyện Mỹ Hào của tỉnh Hải Dương, một số tổng của huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh; huyện Cẩm Lương: gồm một số tổng của ba huyện Văn Giang, Gia Lâm và Siêu Loại tỉnh Bắc Ninh. Năm 1891, Toàn quyền Đông Dương bãi bỏ đạo Bãi Sậy, đưa các huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào vào tỉnh Hưng Yên39. Năm 1919 là xã Giai Phạm, tổng Yên Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên40.
Đ.V.T
(TCSH442/12-2025)
-----------------------
1 Do khuôn khổ bài viết có hạn nên về các giai thoại văn chương và tác phẩm chữ Hán Truyền kỳ tân phả, chữ Nôm Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm chúng tôi sẽ viết ở phần khác.
2 Tang thương ngẫu lục 桑滄偶錄, R.89, nguồn: https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/98/page/1
3 Bản Nôm Chinh phụ ngâm bị lục 征婦吟備錄 trong Danh gia quốc âm 名家國音, AB. 26, theo Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam, Đỗ Thị Hảo (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, 2010.
4 Trúc Khê Ngô Văn Triện, Những tài liệu mới về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Tiểu Thuyết Thứ Bảy năm 1944.
5 Theo phần phiên âm không kèm chữ Hán ở sách Trần Thị Băng Thanh (2017), Một điểm tinh hoa - Thơ văn Hồng Hà nữ sĩ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
6 Nguyên văn chữ Hán theo Trần Thị Băng Thanh (2017), Một điểm tinh hoa - Thơ văn Hồng Hà nữ sĩ (Sđd).
7 Đạm Nguyên (dịch), Đăng khoa lục sưu giảng, Bộ Giáo dục - Trung Tâm Học Liệu xuất bản, 1968.
8 Đăng khoa lục sưu giảng ghi sai là Nguyễn Trác Luân 阮卓輪.
9 Sơn cư tạp thuật 山居雜述, Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tập Thành 越南漢文小說集成, nguồn: https:// tuantdtcn.blogspot.com/2020/06/pdf-viet-nam-han-van-tieu-thuyet-tap.html
10 Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Tổ phiên dịch Viện Sử học (dịch và chú giải), Nxb. Giáo Dục, 2007.
11 Hay là do nạn “Tam sao thất bản” (Lịch triều hiến chương loại chí hiện còn lại là các bản chép tay, không có bản khắc in) nên dễ nhầm từ chữ Đoàn 段 sang chữ Nguyễn 阮 (hai chữ này gần giống nhau) hoặc ông có một nguồn tin khác?
12 Xuyết thập tạp ký, 掇拾雜記, R.92, nguồn: https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/83/
13 Chữ lót Ngọc 玉 có thể được phủ chúa Trịnh ban thêm khi bà Điểm vào cung dạy học cho con của một cung nhân.
14 Quốc văn tùng ký (AB.383), nguồn: https://findit.library.yale.edu/catalog/digcoll:13207
15 Đại Nam kì truyện 大南奇傳 A.229, theo Lâm Giang, Nguyễn Văn Tuân, Truyện ký Việt Nam trong thư tịch cổ, Tập 1, Nxb. Văn Học, 2020.
16 Có thể do Vũ Xuân Tiên soạn. Khoa thi Hương lần thứ 34 năm Bính Tuất (1886) niên hiệu Đồng Khánh thứ nhất, Ân Khoa: Trường thi Ninh Bình, thi chung với trường Hà Nam có Vũ Xuân Tiên, người xã Phú Khê, tổng Hà Nội, huyện Kim Thành, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đậu Cử nhân hạng 10/74 vị trúng tuyển, theo Các vị Hương cống, Cử nhân họ Vũ - Võ Triều Nguyễn (1802-1945), Vũ Hiệp (Sưu khảo và biên soạn - 2006), nguồn: https://www.hovuvo.com/Default.aspx?View=ViewNews&NewsID=11389#_Toc155352854
17 Nam thiên trân dị tập 南天 珍異集, Hát Đông thư dị 喝東書異 theo Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tập Thành 越南漢文小說集成, (Sđd).
18 Hay Giải nguyên, đỗ đầu thi hương.
19 Nguyễn Quang Oánh viết: “Đoàn Thị Điểm, em gái giám sinh Đoàn Luân làng Hiến Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc. Lấy ông Nguyễn Kiều nên mới lấy họ nhà chồng xưng là Nguyễn Thị Điểm” (Nguyễn Quang Oánh, Ngâm khúc, Vĩnh Hưng Long thư quán xuất bản, 1930). Thật ra theo truyền thống Trung Quốc và Việt Nam, ngày xưa thường gọi phụ nữ có chồng như sau: Đoàn Thị Điểm lấy chồng là Nguyễn Kiều (họ Nguyễn) sẽ được gọi một cách trang trọng là Nguyễn phu nhân (phu nhân (vợ) người họ Nguyễn), Nguyễn phủ phu nhân (phu nhân (vợ) thuộc gia tộc họ Nguyễn) hoặc như Tang thương ngẫu lục ghi “Nguyễn công á phu nhân” (vợ kế của ông họ Nguyễn) chứ không bao giờ gọi cả họ chồng và tên vợ là Nguyễn Thị Điểm.
20 Nguyễn Trác Luân 阮卓倫 (1700-?) người xã Bình Lao huyện Cẩm Giàng (nay thuộc phường Phạm Ngũ Lão thành phố Hải Dương tỉnh Hải Dương), Tiến sĩ khoa Tân Sửu niên hiệu Bảo Thái năm thứ 2 (1721), Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan Phó Đô Ngự sử. Sau khi mất, ông được tặng chức Hữu Thị lang Bộ Công. Nguồn: Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Bia Văn miếu Hà Nội. http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1137&Catid=564
21 Theo Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Quốc gia Giáo dục, In lần thứ 3, 1951, trang 288.
22 Bùi Văn Nguyên, Bà Điểm nào trong hai bà Điểm tương truyền có tham gia dịch một bản “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn? Tạp chí Văn Học, số 6 năm 1977.
23 Phan Kế Bính trong Nam Hải dị nhân liệt truyện (Hà Nội - Lê Văn Phúc, 1930) cũng đã từng phân vân về quê quán của bà Điểm, là Hải Dương hay Bắc Giang (Văn Giang)?
24 Các dịch giả trước nay như Trúc Khê, Đạm Nguyên, Trần Thị Băng Thanh vẫn dịch là Giang Bắc là lầm vì trong lịch sử, không có địa danh nào có tên là Giang Bắc.
25 Hoàng Văn Lâu (dịch), Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb. Lao Động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông tây, 2012.
26 Bài này có trong Đoàn thị thực lục.
27 Hai ty quan: là Thừa ty: đứng đầu là Thừa chính sứ mang hàm Tòng tam phẩm. Thừa ty phụ trách về hành chính, dân sự (hộ khẩu, thóc tiền, kiện tụng…) và Hiến ty: đứng đầu là Hiến sát xứ có hàm Chánh ngũ phẩm, Phó hiến sát xứ giữ hàm Chánh thất phẩm. Hiến ty đảm trách công việc kiểm tra, giám sát và tư pháp (nói bày, đàn hặc, khám đoán, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khóa, tuần hành… Thi Hương tổ chức vào tháng 8 của năm; ngày 8, tháng 8 thi trường nhất; ngày 18 tháng 8 thi trường nhì; ngày 24 tháng 8 thi trường ba; ngày 28 tháng 8 thi trường tư. Quy định này áp dụng cho các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương.
28 Theo Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hưng, Nguyễn Đổng Chi (dịch, khảo chứng), Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2011: Năm 1721, hai ty Thừa chính, Hiến sát khảo hạch lại kỹ càng: có sự phân biệt ra hạng xảo thông và thứ thông rồi cho thi với nhau để định ra hạng giỏi, hạng kém. Đoàn Doãn Nghi sinh năm 1679 (theo cách tính của Trần Thị Băng Thanh) vậy nếu năm 1721 thi xảo thông, ông đã 42 tuổi?
29 Người đỗ Hương cống được hưởng một trong hai quyền lợi: vào học trường Quốc Tử Giám chờ kỳ thi Hội hoặc bổ dụng chức quan (thường họ được bổ làm Lại điển các nha môn rồi lên chức Huyện thừa, Tri huyện).
30 Hồng Hà phu nhân nghiêm phụ thần đạo bi ký là phần cuối của Hồng Hà phu nhân di văn.
31 Trong Hồng Hà phu nhân nghiêm phụ thần đạo bi ký.
32 Trần Thị Băng Thanh sửa là Mậu Ngọ, đầu năm 1679.
33 Xã Lạc Viên, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương.
34 Hiện nay Gò Mả Chín ở thôn Yên Phú, xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
35 Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí 皇越一統輿地志, Nxb. Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
36 Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Đồng Khánh dư địa chí 同慶地輿志, Nxb. Thế Giới, 2003.
37 Phân phủ Thuận Thành: năm Minh Mệnh 13 (1832) tách 2 hai huyện Gia Lâm và Văn Giang thuộc phủ Thuận An làm phân phủ Thuận Yên. Năm Tự Đức 15 (1862) đổi là phân phủ Thuận Thành.
38 Theo Trúc Khê, xưa là làng Hiến Phạm 憲範 thuộc huyện Văn Giang trấn Kinh Bắc, đến bản triều vì kiêng húy Hiến (憲) là miếu hiệu Hiến Tổ (憲祖) của vua Thiệu Trị mất năm 1847 nên mới đổi ra là Khải Phạm 楷範, về chữ 楷 Trúc Khê cho biết: “Chữ Khải là chữ ít dùng đến, nên ít người biết, nhân trông thấy một bên có chữ giai 皆 bèn đọc là giai, từ đấy mới có tên gọi là Giai Phạm”, thực ra chữ 楷 có hai âm khải và giai, người xưa đọc là “Giai” có lẽ hiểu là cây giai (bộ thủ mộc 木), “Giai Phạm” là cách đọc truyền thống hơn là “Khải Phạm” Trần Thị Băng Thanh (sđd) cũng theo Trúc Khê khi cho âm “Khải” là đúng hơn âm “Giai”. Hoàng Xuân Hãn (Chinh phụ ngâm bị khảo, Minh Tân, 1952) đã sơ xuất khi cho Đoàn Thị Điểm quê quán làng Giai Phạm (nay là Hiến Phạm), thực ra là Hiến Phạm sau mới đổi là Giai Phạm.
39 Các địa danh này đến năm 1935 vẫn lưu hành như Trịnh Như Tấu trong Hưng Yên địa chí đã ghi nhận: “Đoàn Thị Điểm người xã Giai Phạm, tổng Yên Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên” và năm 1944, Trúc Khê vẫn ghi nhận các địa danh trên. Xã Giai Phạm hiện nay đã được sáp nhập với xã Nghĩa Hiệp để thành lập xã mới có tên là xã Nguyễn Văn Linh, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
40 Di sản Hán Nôm, Viện nghiên cứu Hán Nôm, nguồn: http://www.hannom.org.vn/default.asp?CatID=243. Văn bản chép tay vào năm Khải Định 4 (1919): 興安省安美縣安富總楷範社中富村古字紙 (Sách vở cổ ở thôn Trung Phú, xã Giai Phạm, tổng Yên Phú, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Lưu ý, địa danh “Trung Phú” của bản chép tay năm 1919, trước đó đã từng được Vũ Hoạt xác nhận qua bản Chinh phụ ngâm bị lục 征婦吟備錄 trong Danh gia quốc âm 名家國音, Thiên Thủy Khẩu Vũ Hoạt, Long Hòa Hiệu Tàng Bản khắc in năm Nhâm Dần (1902): Văn Giang Trung phú Đoàn phu nhân điểm diễn âm 文江中富段夫人點演音 (Phu nhân Đoàn Thị Điểm, thôn Trung Phú, huyện Văn Giang diễn âm). Thông tin thôn Trung Phú của huyện Văn Giang đã cho biết bản Chinh phụ ngâm này ít nhất xuất hiện trước năm 1890 là năm hình thành đạo Bãi Sậy và năm 1891 xã Giai Phạm, tổng Yên Phú không còn thuộc huyện Văn Giang nữa vì đã thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.