Những nẻo đường đất nước
Cảng Chân Mây 10 năm xanh ngắt
09:33 | 20/06/2013

KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP CẢNG CHÂN MÂY

NGUYỄN HỮU THỌ
(Chủ tịch, Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên Cảng Chân Mây)

Cảng Chân Mây 10 năm xanh ngắt

Lược sử một vùng đất

Chân Mây - Lăng Cô là vùng đất ở cực Nam tỉnh Thừa Thiên Huế, thuộc địa bàn của 3 xã Lộc Thủy, Lộc Tiến, Lộc Vĩnh và thị trấn Lăng Cô thường được gọi là Nước Ngọt, Thừa Lưu, Lăng Cô, hiện nay nằm trong phạm vi quy hoạch Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô.

Theo chiều dài lịch sử, vùng đất Chân Mây - Lăng Cô đã từng có nhiều tên gọi khác nhau. Theo “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang, vào năm 359 bến Ôn Công, mũi Choumay (Chân Mây) là ranh giới giữa Nhật Nam với Lâm Ấp thuộc Vương quốc Champa. Vào tháng Tư năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Ánh đã đi thuyền ra đóng ở vũng Chu Mãi (Chân Mây) để đại binh tiến đánh quân Tây Sơn qua cửa Tư Dung. Vùng đất Chân Mây - Lăng Cô ngày xưa gồm Lộc Thủy, Lộc Tụ thuộc tổng An Cư. Sau Cách mạng tháng Tám, Lộc Tụ được chia làm 3 xã: Đại Nguyên, Đại Hải, Đại Quang. Năm 1947, 2 xã Đại Nguyên và Đại Quang được nhập thành xã Đại Tiến, xã Đại Hải vẫn giữ nguyên. Đến tháng 5 năm 1949 hai xã Đại Tiến và Đại Hải lại hợp nhất thành xã Vĩnh Lộc. Sau Hiệp định Genève năm 1954, chính quyền Sài Gòn chia Vĩnh Lộc thành 2 xã: xã Đại Quang (cũ) mang tên là Lộc Hải, xã Đại Hải và Đại Nguyên (cũ) mang tên là Lộc Tụ. Trên vùng đất này đã diễn ra nhiều trận chiến ác liệt. Năm 1966, tàu chiến, thủy quân lục chiến và xe tăng Mỹ đã đổ bộ vào vịnh Chân Mây. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc chiến đấu chống đổ bộ của lực lượng vũ trang. Bộ đội và dân quân du kích lợi dụng địa hình tổ chức nhiều trận đánh, lập nhiều chiến công vang dội.

Chân Mây - Lăng Cô: vùng đất được đánh thức

Năm tháng qua đi, chiến tranh lùi về quá khứ, cùng với đất nước, lịch sử của vùng đất Chân Mây - Lăng Cô đã giở sang trang mới.

Tháng 9 năm 1981, Lộc Tụ được chia thành 2 xã Lộc Tiến và Lộc Vĩnh; vùng Chân Mây - Lăng Cô lúc này gồm 4 xã Lộc Thủy, Lộc Tiến, Lộc Vĩnh, Lộc Hải. Trong đó, xã Lộc Vĩnh tiếp giáp với vịnh Chân Mây được mũi Chân Mây Đông che chắn tạo ra vùng nước kín gió, lặng sóng nên các tàu thuyền thường đến neo đậu an toàn khi có gió bão.

Cùng với công cuộc đổi mới, những thành tựu đạt được đã tạo ra một thế và lực mới để Thừa Thiên Huế tiến lên với nhịp độ cao hơn, phát triển, hội nhập cùng với khu vực và cả nước. Tuy nhiên, so với tiềm năng lợi thế thì tỉnh Thừa Thiên Huế vẫn chưa thật sự phát huy thế mạnh. Câu hỏi “phải làm gì đây để đưa Thừa Thiên Huế phát triển một cách nhanh chóng, bền vững” luôn là điều trăn trở, thôi thúc lãnh đạo tỉnh tìm phương sách tháo gỡ.

Trong bối cảnh đó, Chân Mây được phát hiện qua đề xuất của Tiến sĩ Trương Đình Hiển như một khả năng khởi phát động lực phát triển, mở ra hướng đi mới cho Thừa Thiên Huế. Ngày 29/11/1994, đã đánh dấu mốc quan trọng khi đoàn lãnh đạo tỉnh cùng với Phòng Thủy hải văn công trình (Phân viện Vật lý TP. HCM) tiến hành khảo sát thực tế vùng Chân Mây. Tiếp đó, báo cáo “Nghiên cứu khảo sát lập dự án chọn địa điểm cảng biển nước sâu và khu công nghiệp Chân Mây” của Tiến sĩ Trương Đình Hiển đã được UBND tỉnh thông qua vào ngày 01 tháng 01 năm 1996.

Vịnh Chân Mây có cửa rộng 7km, diện tích mặt nước khoảng 20km2, độ sâu từ 6 - 14 mét, phần có độ sâu từ 9 - 14 mét chiếm 65% diện tích của vịnh. Khu vực đất liền tiếp giáp vịnh chủ yếu là đồng bằng Lộc Vĩnh, Lộc Tiến, Lộc Thủy có mặt bằng khá bằng phẳng. Theo quy hoạch, khu dân cư có quy mô từ 10 - 30 vạn dân, chiều dài bến cảng có thể đến vài cây số với hậu phương rộng mở. Vịnh Chân Mây không những có điều kiện lý tưởng về địa lý mà còn thuận lợi về giao thông. Tiếp giáp đường Quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt; tiếp cận với đường hàng hải quốc tế và nội địa; cách sân bay Quốc tế Đà Nẵng và sân bay Quốc tế Phú Bài không quá 40km; cách đường 9 khoảng 100km về phía Bắc, thuận lợi cho việc thông thương qua Lào, Thái Lan. Hệ thống liên lạc nối đến đường cáp quang, viba, lưới điện quốc gia chỉ cách 5km. Nước được lấy từ Nhà máy Nước Chân Mây cách 7km và tương lai được bổ sung thêm từ đập Thủy Yên, Thủy Cam.

Tính khả thi và ý nghĩa của dự án được các bộ, ngành, chuyên gia nước ngoài đánh giá cao và Chính phủ đã rất quan tâm. Ngày 24/3/1996, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã thị sát thực tế và giao cho Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với các bộ, ngành và UBND tỉnh xây dựng quy hoạch khu vực Chân Mây.

Các ban, ngành Trung ương đã nhập cuộc cùng Thừa Thiên Huế đẩy nhanh tiến độ lập các thủ tục triển khai dự án. Tháng 5/1996, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng khu vực Chân Mây để làm đầu mối phối hợp lập dự án khả thi trình Thủ tướng Chính phủ. Tháng 6/1996, Bộ Xây dựng chỉ đạo tiến hành nghiên cứu quy hoạch chung cảng biển nước sâu và khu công nghiệp - thương mại quốc tế - du lịch Chân Mây. Tháng 8/1996, Bộ Giao thông Vận tải giao cho BQL dự án các công trình Biển Đông quy hoạch phát triển Cảng Chân Mây song song với nghiên cứu tiền khả thi hệ thống cảng, triển khai nghiên cứu khả thi cầu cảng số 1 và hệ thống giao thông nối quốc lộ 1A với cảng.

Ngày 27/12/1996, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng quy hoạch chung đô thị mới Chân Mây. Trong đó, Cảng Chân Mây được ưu tiên đầu tư với vai trò là công trình mang tính chất đột phá để thúc đẩy sự phát triển Khu Đô thị mới Chân Mây với chức năng là cửa ngõ thông ra biển Đông thuận lợi nhất của Hành Lang kinh tế Đông - Tây qua cửa khẩu Lao Bảo.

Sau đó, những công trình đầu tiên chuẩn bị cho việc ra đời Cảng Chân Mây đã được triển khai như: Công trình đường nối Quốc lộ 1A - Cảng Chân Mây, Dự án tiền khả thi Cảng Chân Mây được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận để tiến hành các bước tiếp theo. Về phía tỉnh cũng triển khai nhiều dự án hạ tầng kỹ thuật quan trọng: Hệ thống cấp nước Chân Mây - giai đoạn 1, Đường khu du lịch Lăng Cô, Đường ven biển Cảnh Dương, di dời đường dây 110KV tại Khu du lịch Lăng Cô...

Tuy vậy, việc tổ chức thực hiện dự án Cảng Chân Mây hết sức chậm trễ, kéo dài. Cụ thể là Công trình đường nối Quốc lộ 1A - Cảng Chân Mây chỉ với 8km nhưng kéo dài tiến độ gần 4 năm mới hoàn thành. Công trình Bến số 1 - Cảng Chân Mây do BQL dự án Biển Đông làm chủ đầu tư, vì vướng mắc những trở lực xuất phát từ những suy nghĩ xa rời lợi ích của nhân dân và cạnh tranh lợi ích cục bộ nên không được bố trí vốn thực hiện kịp thời. Trong lúc đó, các cảng lân cận như Dung Quất, Vũng Áng đều đã khởi công vào năm 1998; trên địa bàn tỉnh thì tình hình cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy xi măng Luksvaxi, Long Thọ thường xuyên bị ách tắc do luồng vào Cảng Thuận An bị bồi lấp; các sản phẩm trên địa bàn bị mất lợi thế cạnh tranh vì chi phí trung chuyển hàng hóa đến các cảng xa chiếm tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu giá thành... Và ngoài ra, trên địa bàn tỉnh cũng đang tập trung nguồn lực cho một dự án nông nghiệp lớn với phạm vi đầu tư dàn trải trên khắp địa bàn toàn tỉnh.

Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1999, Thừa Thiên Huế bị cơn lũ lụt lịch sử tàn phá nặng nề, toàn bộ hệ thống giao thông bị tê liệt. UBND tỉnh đã có Báo cáo về tình hình thiệt hại do lũ lụt gửi Trung ương, đề nghị sớm thẩm định Luận chứng KTKT Cảng Chân Mây để phục vụ vận tải biển trong điều kiện hệ thống giao thông đường không, đường bộ, đường sắt bị chia cắt do bão lụt.

Tháng 6/2000, UBND tỉnh có công văn gửi Trung ương xem xét cho tỉnh được đầu tư Bến số 1 - Cảng Chân Mây và được chấp thuận. Dự án đã được Tổng Công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải khẩn trương triển khai. Ban quản lý các dự án đô thị mới Chân Mây do Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Mễ kiêm Trưởng ban, Phó trưởng ban Thường trực Nguyễn Hữu Thọ cùng với CBCNV (Ngô Viết Thông, Đặng Phúc Hiền, Lê Loan, Trương Sơn, Tôn Nữ Huỳnh Phương, Nguyễn Công Bình, Trương Đình Vĩnh) tích cực triển khai các khâu thẩm định hồ sơ, chỉ định thầu, đấu thầu xây lắp, thiết bị... Và chỉ sau hơn 6 tháng chuẩn bị, công trình đã được khởi công.

Việc chuẩn bị lễ khởi công cũng hết sức vất vả. Đêm trước mọi việc chuẩn bị tưởng chừng xong xuôi, chuẩn bị nghỉ ngơi thì trời bỗng nổi sấm sét, mưa to, gió lớn... Lều bạt bị đổ, băng rôn, biểu ngữ... hai bên đường bị gió lốc cuốn sạch. Thế là phải thu dọn đến gần 10 giờ đêm mới xong và sáng hôm sau, phải bắt đầu trang trí lại từ 3 giờ sáng để kịp tổ chức lễ khởi công trang trọng vào đúng 8 giờ sáng ngày 25/3/2001.

Như vậy là việc ra đời của Cảng Chân Mây đã hết sức trở ngại do nhiều định kiến lại còn bị thời tiết thử thách quá sức khắc nghiệt. Tuy vậy, dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo tỉnh; với ý chí quyết tâm của đội ngũ trực tiếp thực hiện dự án, mọi khó khăn đều đã vượt qua với nhiều giải pháp sáng tạo. Chỉ sau 2 năm thi công, Bến số 1 - Cảng Chân Mây đã khánh thành. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2003, người dân Lộc Vĩnh và các xã trong khu vực nô nức về chứng kiến sự kiện khánh thành Bến số 1 như ngày hội của chính mình. Trời Chân Mây hôm ấy mát dịu, báo hiệu “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”... Quyết định công bố kịp thời của Cục Hàng hải Việt Nam cho phép Bến số 1 tiếp nhận tàu biển trong nước và quốc tế có trọng tải đến 30.000DWT, tạo tiền đề cho những bước đi đầu tiên của một bến cảng non trẻ, mở ra nhiều hứa hẹn về một giai đoạn mới cho tỉnh Thừa Thiên Huế nói chung và cho vùng đất Chân Mây nói riêng.

Sự ra đời của Cảng Chân Mây đã đánh thức vùng Chân Mây - Lăng Cô vốn dĩ hết sức hoang sơ. Sau đó, nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật thiết yếu cũng được tập trung đầu tư, càng làm rõ hơn lợi thế của vùng đất này. Đây cũng chính là tiền đề quan trọng để UBND tỉnh giao cho Ban QLDA Chân Mây lập đề án thành lập Khu Kinh tế Chân Mây - Lăng Cô.



10 năm mới bấy nhiêu ngày...

Cũng xin được nói thêm đôi điều về việc chọn vị trí xây dựng Bến số 1 - Cảng Chân Mây. Có rất nhiều ý kiến về vị trí, cao trình, môi trường nhiễm xạ... trái ngược nhau, có khi trở thành những cuộc “đấu khẩu” trong dư luận. Tuy vậy, thực tế đã trả lời với hơn 10 năm, trải qua những cơn bão lớn, những đợt gió mùa Đông - Bắc tăng cường mạnh, những sự cố hàng hải... nhưng Bến số 1 trong điều kiện chưa có đê chắn sóng vẫn đứng vững, khai thác hiệu quả. 10 năm qua chưa hề duy tu nạo vét luồng tàu nhưng độ sâu vẫn đảm bảo cho tàu 50.000DWT cập bến. Điều đó khẳng định việc chọn vị trí xây dựng Bến số 1 là hết sức hợp lý; đồng thời, đó cũng là câu trả lời đầy đủ ý nghĩa về chất lượng của công tác tư vấn, chất lượng thi công, chất lượng giám sát; trách nhiệm và hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành quản lý dự án...

Bên cạnh việc quản lý điều hành dự án, việc đào tạo nhân lực cũng không đơn giản chút nào khi mà trên địa bàn tỉnh, lực lượng cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, điều hành cảng và công nhân xếp dỡ, thủy thủ thuyền viên gần như không có để tuyển dụng. Ban QLDA Chân Mây đã xin ý kiến của UBND tỉnh, tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng Giám đốc Cảng Sài Gòn Trần Văn On, vào đầu năm 2002, tuyển dụng 70 kỹ sư, cao đẳng, trung cấp mới ra trường, học sinh mới tốt nghiệp phổ thông để gửi đi đào tạo tại Cảng Sài Gòn. Lực lượng này tốt nghiệp kịp lúc Bến số 1 khánh thành cùng với Quyết định ngày 22/4/2003 của UBND tỉnh giao cho Ban QLDA Chân Mây trực tiếp điều hành Cảng Chân Mây kịp thời đưa Bến số 1 vào khai thác. Đến nay, lực lượng ấy đang là những cán bộ chủ chốt của Công ty như: Huỳnh Văn Toàn - Phó Giám đốc Công ty, Lê Chí Phai - Giám đốc Xí nghiệp cung ứng DV Tàu biển, Nguyễn Thành Công - Trưởng phòng Thường vụ, Lê Thành Công - Trưởng phòng Kỹ thuật, Cái Quốc Phưởng - Phó phòng Kỹ thuật, Hồ Hoàng Bửu Chính - Phó phòng Kế hoạch Khai thác... Đặc biệt là hầu hết công nhân đã qua đào tạo tại Trường CNKT Cảng Sài Gòn đều nắm vững kiến thức, giỏi tay nghề đảm đương những vị trí đội trưởng, ca trưởng, ca phó, tổ trưởng chủ chốt của Cảng Chân Mây. Từ đó, đã đào tạo, kèm cặp nhân rộng đội ngũ công nhân xếp dỡ, lái cẩu tàu, cẩu bờ, giao nhận, nâng tổng số CBCNV Cảng Chân Mây hiện nay lên đến 264 người. Bên cạnh lực lượng được tiếp nhận để đào tạo, sự thành công của Cảng Chân Mây cũng đã có sự đóng góp quan trọng của rất nhiều người nhiệt huyết, mạnh dạn dấn thân, rời xa những thành phố lớn để đến thử sức ở vùng đất mới Chân Mây trong điều kiện giao thông cách trở với khoản tiền lương eo hẹp trong giai đoạn đầu.

Như vậy, Ban QLDA Chân Mây với nhiệm vụ chính ban đầu chỉ là quản lý dự án đầu tư xây dựng, xúc tiến đầu tư, quản lý qui hoạch của vùng Chân Mây - Lăng Cô đã kiêm luôn cả lĩnh vực quản lý, khai thác Cảng Chân Mây.

Ban QLDA Chân Mây được thành lập vào ngày 06/11/1997 với tên gọi ban đầu là Ban quản lý các dự án Đô thị mới Chân Mây do Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Mễ kiêm Trưởng ban, ông Nguyễn Trung Sơn - nguyên Chánh Văn phòng UBND tỉnh làm Phó Trưởng ban Thường trực. Ngày 15/4/1999, đồng chí Nguyễn Hữu Thọ được điều động từ Văn phòng UBND tỉnh sang giữ chức vụ Phó Trưởng ban và đến ngày 01/11/1999 thì thay đồng chí Sơn giữ chức Phó Trưởng ban Thường trực. Biên bản ký nhận bàn giao chưa ráo mực thì Thừa Thiên Huế bị cơn lũ lụt lịch sử tàn phá nặng nề. Sáng ngày 2/11/1999, nước tràn vào ngập văn phòng. Sau đó có người đùa rằng: khi nhận bàn giao mà nước vào là điều may mắn. Và đúng là may mắn thật, đó là Huế được Trung ương quan tâm hỗ trợ nhiều hơn. Dự án Bến số 1 - Cảng Chân Mây đã được chính phủ hỗ trợ đến 60% tổng mức đầu tư, khoản hỗ trợ ngân sách Trung ương lớn nhất cho một công trình do địa phương làm chủ đầu tư cho đến thời điểm đó.

Sau khi công trình Bến số 1 khởi công, lực lượng cán bộ của Ban được tăng thêm: Nguyễn Công Bình - Kỹ sư Xây dựng DD&CN, Hồ Hoàng Thi - CNQTKD, Trương Thái Bình - KTS, Nguyễn Văn Thạch Tuấn - Kỹ sư cầu đường, Nguyễn Đắc Phước - Kỹ sư Đô thị, Phan Bằng Tường - Kỹ sư Khai thác Hàng hải, Huỳnh Văn Toàn - Kỹ sư cơ khí chế tạo, Trần Văn Phong - Cử nhân kinh tế; và, Ban quản lý các dự án Đô thị mới Chân Mây được đổi tên thành Ban QLDA Chân Mây theo quyết định ngày 23/8/2001. Với chức năng được giao chủ yếu là chủ đầu tư các dự án đầu tư trên địa bàn Chân Mây - Lăng Cô, Ban QLDA Chân Mây đã triển khai nhiều dự án về khảo sát địa hình, thủy hải văn, địa chất, quy hoạch, điều tra xã hội nhân văn và một số công trình lớn. Quá trình thi công có những công trình kỹ thuật hết sức phức tạp, đòi hỏi tinh thần làm việc sáng tạo mới có thể hoàn thành và tiết kiệm được nhiều kinh phí như: Công trình Nhà máy Nước Chân Mây là công trình thiết kế lợi dụng công trình thủy điện cũ do Bogaert (chủ nhà máy Vôi Long Thọ) xây dựng tại Thừa Lưu vào những năm 30 của thế kỷ trước. Quá trình thi công Đập khe Mệ bị lưu lượng mưa quá lớn trong đợt lũ lụt từ ngày 1 - 5/11/1999 làm sạt lở. Ban QLDA Chân Mây đã phải thay đổi vị trí xây đập khe Mệ đến vị trí mới hợp lý sau nhiều lần tranh luận với đơn vị tư vấn, tuyến đường lên khu xử lý nước cũng phải thay đổi tuyến mới... Đến nay, sau hơn 11 năm đi vào sử dụng, các hạng mục công trình vẫn hoạt động tốt, chất lượng nước đảm bảo, bằng chứng là được các tàu khách quốc tế kiểm nghiệm và sử dụng.

Công trình Hệ thống đường trục chính khu du lịch Lăng Cô và đường ven biển Cảnh Dương cũng là những giải pháp kết cấu nền đường sáng tạo với lớp áo đường hai bên lề là cấp phối đồi, ở giữa là nền cát. Kết cấu này đã tiết kiệm được nhiều kinh phí do tận dụng được nền cát tại chỗ và nền cát ổn định nên qua hơn 10 năm sử dụng nền đường vẫn tốt.

Công trình Bến số 1 - Cảng Chân Mây là công trình cảng biển, điều kiện thi công phức tạp, Ban quản lý dự án Chân Mây với trách nhiệm của mình cũng đã đề xuất nhiều giải pháp sử dụng cát mịn tại chỗ, thay thế mũi cọc hợp lý so với thiết kế, đạt được độ chối theo yêu cầu, sáng kiến liên kết các phân đoạn, lợi dụng địa hình để thi công các bích neo bờ... Những giải pháp đó đã tiết kiệm vài chục tỷ đồng trong điều kiện kinh phí hạn chế.

Ngày 24 tháng 5 năm 2005, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã có công văn giao cho Ban QLDA Chân Mây phối hợp với Viện Chiến lược phát triển và một số Vụ quản lý chuyên nghành của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề án thành lập Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô với phạm vi bao gồm khu vực thị trấn Lăng Cô, xã Lộc Thủy, Lộc Tiến, Lộc Vĩnh thuộc huyện Phú Lộc - Thừa Thiên Huế có diện tích 27.108 ha.

Sau gần 6 tháng khẩn trương, Đề án Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt và ban hành Quy chế hoạt động tại Quyết định số 04/2006/QĐ-TTg ngày 05/01/2006.

Sau khi thành lập BQL Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, Ban QLDA Chân Mây chuyển thành cơ quan chuyên môn trực thuộc BQL Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô, hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính của Cảng Chân Mây.

Đầu năm 2007, Chính phủ đã có chủ trương chuyển giao Cảng Chân Mây cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam. Ngày 28/09/2007, Hội đồng quản trị Tập đoàn đã có quyết định thành lập Công ty TNHH một thành viên Cảng Chân Mây. Công ty vừa mới được thành lập thì bước qua năm 2008, thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Trong khi đó, Cảng Chân Mây nhờ đã có những bước đi đúng đắn nên tốc độ tăng trưởng từ năm 2008 đến năm 2011 đạt bình quân hàng năm trên 25%.

Qua 10 năm đi vào hoạt động, từ khi còn là BQLDA Chân Mây - cơ quan chuyên môn của tỉnh Thừa Thiên Huế và đến nay hoạt động với mô hình doanh nghiệp, Công ty TNHH MTV Cảng Chân Mây đã luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: thực hiện thành công một trong 6 chương trình kinh tế trọng điểm của Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ XII, hoàn thành việc đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động Bến số 1 - Cảng Chân Mây - dự án mang tính chất đột phá để hình thành Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô; hình thành một số dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu ban đầu tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư vào khu du lịch Lăng Cô; trực tiếp xúc tiến kêu gọi đầu tư các dự án đầu tư giải quyết nhiều công ăn việc làm và đóng góp nhiều cho ngân sách trên địa bàn như: các Nhà máy giấy xuất khẩu gỗ dăm, Kho xăng dầu PV Oil, Kho nhựa đường của ADCO, Khách sạn Hương Giang Lăng Cô, Thanh Tâm...

Và, Cảng Chân Mây, sau 10 năm đi vào hoạt động, với chỉ một bến, đã tổ chức xếp dỡ gần 10 triệu tấn hàng hóa, đón 200.000 du khách quốc tế, thu hút được nhiều dự án đầu tư trên địa bàn và hiện đang phát huy hiệu quả đầu tư, các nhà máy xi măng trên địa bàn mạnh dạn tăng công suất và khởi động các dự án xi măng mới, kim ngạch xuất nhập khẩu qua Cảng đạt gần 1 tỷ USD; đặc biệt là thông qua hoạt động, Cảng Chân Mây đã trực tiếp cũng như gián tiếp giải quyết công ăn việc làm từ 5 đến 7 vạn lao động cho nhân dân địa phương. Sự đóng góp đó đã làm thay đổi diện mạo theo hướng tích cực cho một vùng đất mà thời kỳ 1995 - 1996, cả vùng Chân Mây - Lăng Cô, có 4 xã mà đã 3 xã nghèo, tỷ lệ nhà 2 tầng chưa đến 2%, nhà mái bằng chưa vượt quá 5%.

Tuy nhiên, kết quả sẽ còn khả quan hơn nếu được quan tâm đầu tư kịp thời, đồng bộ, đầu tư thêm bến mới, tạo sự kết nối Cảng với hệ thống giao thông sắt bộ và chuỗi logistics trong vùng cũng như của cả nước.

Một số vấn đề đặt ra trong quá trình khai thác

KKT Chân Mây - Lăng Cô được quy hoạch trở thành một trong những trung tâm thương mại quốc tế lớn của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Các KCN sẽ được phát triển theo hướng chủ đạo là công nghiệp sạch, công nghiệp nhẹ, công nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp phục vụ du lịch và dịch vụ bên cạnh dự án xây dựng khu đô thị mới hiện đại, môi trường sinh thái. Khu đô thị mới Chân Mây, khu du lịch dịch vụ Lăng Cô sẽ trở thành trung tâm du lịch dịch vụ của Vùng và của cả nước, tạo thành cửa ngõ quan trọng thông ra biển Đông của Nam Lào, Đông Bắc Thái Lan.

Khu Kinh tế Chân Mây - Lăng Cô nằm trên đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt, gần cảng hàng không quốc tế Phú Bài và Đà Nẵng, có Cảng nước sâu Chân Mây với khả năng tiếp nhận các tàu trọng tải đến 100.000 DWT và tàu du lịch cỡ lớn, là cửa ra biển Đông thuận lợi nhất, cự li gần nhất đến cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. Với vị trí quan trọng đó, lẽ ra Cảng Chân Mây đã là “động lực” lớn cho định hướng cũng như sự phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tuy nhiên, quá trình khai thác cảng biển và đầu tư còn có nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, đó là:

Trước hết, là thiếu cầu cảng cho hàng tổng hợp và bến chuyên dụng cho tàu khách, công trình hạ tầng kỹ thuật chìm hoàn chỉnh.

Về tàu khách du lịch đến Huế, từ năm 2010 đến nay, khách du lịch tàu biển qua cảng Chân Mây tăng mạnh. Riêng năm 2012 đã có 33 tàu du lịch qua cảng, với hơn 40.000 lượt khách và ngay từ những ngày đầu năm 2013, cảng Chân Mây đã nhộn nhịp với sự xuất hiện thường xuyên của các đoàn tàu biến du lịch quốc tế sang trọng như: Celebrity Milenium, Cliper Odysey, Seven Seas Voyager, Nautica, Silver Shadow, Silver Whiper, Crystal Simphony... đưa hàng ngàn khách du lịch quốc tế đến Huế và miền Trung. Mặc dù, chưa hoàn chỉnh các dịch vụ để đón và phục vụ khách, nhưng với độ sâu luồng tàu ổn định, cảng chỉ có 1 bến nhưng chiều dài bến đảm bảo, cùng với sự năng động trong khai thác, Cảng Chân Mây đã thu hút những hãng tàu du lịch lớn đến với Cảng. Theo các công ty lữ hành, so với cả các điểm dừng chân của tàu biển quốc tế tại Việt Nam như Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh... thì Cảng Chân Mây là điểm đến có sức hấp dẫn riêng, với lợi thế là điểm giữa của thành phố Đà Nẵng và thành phố Huế, trung điểm của các di sản văn hóa thế giới tại miền Trung... Lợi thế là vậy, nhưng Cảng Chân Mây cũng gặp không ít khó khăn trong việc đón khách. Trước hết, đó là sự bất cập do chưa có cảng bến chuyên dụng, phải đón khách qua cảng hàng hóa. Đây là một vấn đề nan giải, nhưng cũng khó giải quyết một sớm, một chiều.

Những năm gần đây, Cảng Chân Mây là nơi có tần suất xuất và nhập hàng khá lớn trong khu vực miền Trung, khai thác khách du lịch tàu biển khá hiệu quả. Tuy vậy, việc thi công tuyến đường ra Cảng tiến hành quá chậm trễ đã ảnh hưởng đến việc thu hút tàu khách du lịch quốc tế và không đảm bảo vệ sinh môi trường, ảnh hưởng đến mỹ quan chung của khu vực.

Tiếp đến, công tác đầu tư còn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.

Việc xây dựng Bến số 2 của Cảng Chân Mây đã được hoạch định từ nhiều năm trước, tuy nhiên đến nay cũng mới chỉ triển khai phần khảo sát địa chất, thủy văn và đang chờ đợi sự thống nhất, chủ trương. Để kịp phục vụ nhu cầu phát triển trong những năm sắp đến, đặc biệt là giai đoạn 2015 - 2020, nếu Bến số 2 không đầu tư ngay từ bây giờ sẽ không bắt kịp được nhu cầu hiện có và đang gia tăng phát triển.

Một trở khác ngại khác, đó là thiếu đê chắn sóng - một công trình đảm bảo an toàn cho luồng tàu ra vào cảng trong điều kiện cảng biển hở. Không có đê chắn sóng thì sự tồn tại sẽ bị đe dọa chứ chưa nói tới phát triển bền vững. Đó là chưa kể những khó khăn, thiệt hại cho chủ tàu, chủ hàng khi gặp phải thời tiết bất thường, biển động...

Mặc dù Chân Mây - Lăng Cô được xác định là Khu kinh tế động lực nhưng đầu tư của Nhà nước vẫn còn rất hạn chế. Sau 7 năm thành lập, tổng vốn đầu tư từ ngân sách chỉ đạt khoảng 1.000 tỷ đồng cho tất cả các hạng mục, còn chưa bằng nguồn vốn đầu tư xây một cây cầu. Chính vì thế, hạ tầng của toàn KKT chưa được triển khai xây dựng đồng bộ. Điều đó không chỉ ảnh hưởng lớn tới hoạt động của Cảng Chân Mây, mà còn giảm sức thu hút đầu tư của toàn KKT.

Cuối cùng, cần sự chỉ đạo kiên quyết để đảm bảo an toàn hành hải trên luồng tàu.

Kể từ cuối năm 2003, sau khi Cảng Chân Mây đi vào hoạt động thì tình hình đặt đáy rớ trái phép trên luồng tàu, khu nước Bến số 1 bắt đầu xuất hiện. Trước đây tình hình này chưa có ở địa phương, nay không hiểu là do có đường ra vào, có bờ kè cảng che chắn nên ngư dân mạnh dạn ra vào vịnh bằng thuyền thúng hay là do việc thả đá xây kè cảng đã thu hút tôm hùm vào. Tình hình đang hết sức nghiêm trọng, từ chỗ chỉ vài hộ đã phát triển lên đến 140 hộ ngư dân thả đáy, rớ gây cản trở lưu thông an toàn cho tàu thuyền và đã xảy ra nhiều sự cố, có những sự cố nghiêm trọng gây thiệt hại cho tàu biển và Cảng Chân Mây lên đến hàng triệu USD. Đã gần 10 năm giải quyết với những biện pháp cưỡng chế, giải tỏa nhưng không xong do chủ trương không đồng bộ giữa cấp ủy với chính quyền. Năm 2012, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của UBND tỉnh, Sở Giao thông Vận tải, huyện Phú Lộc, Đội quản lý Đô thị huyện Phú Lộc và các cơ quan chức năng, tình hình ngư dân vi phạm thả đáy, rớ, đánh bắt tôm hùm con trong khu vực giới hạn luồng tàu, khu quay trở và khu đậu tàu đã giảm cơ bản. Tuy vậy, từ đầu năm 2013, đã tái diễn tình trạng đánh bắt trái phép, ảnh hưởng đến sự an toàn hành hải của tàu thuyền ra vào cảng.

Thay lời kết

10 năm là một chặng đường không dài so với lịch sử, nhưng đó là khoảng thời gian ghi lại sự thành công về một quyết định sáng suốt của tỉnh và sự quan tâm của Trung ương, giúp cho một vùng đất mà nguồn lực đang còn chất chứa, đầy tiềm năng. Mười năm đó còn ghi lại sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, sự quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, năng động, sáng tạo của những con người có sứ mệnh trực tiếp thực thi việc khai thông nguồn lực với biển. Hoạt động trong điều kiện hạ tầng chưa hoàn chỉnh, phải nhận một khoản nợ phi lý với lãi suất cao và áp lực chi phí khấu hao do giá trị tài sản tăng vì quan điểm bất đồng khi chuyển giao chủ sở hữu đã làm cho doanh nghiệp lâm vào cảnh nợ nần, không có nguồn lực tích lũy để phát triển nhưng Công ty đã nỗ lực tổ chức khai thác hiệu quả, đưa Cảng Chân Mây từng bước trở thành một thương hiệu có uy tín về năng suất, chất lượng, xếp dỡ, dịch vụ cung ứng tàu biển và ngày càng đóng vai trò tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn Thừa Thiên Huế và khu vực.

Tuy nhiên, đây chỉ là giai đoạn sơ khai, kết quả còn khiêm tốn so với tiềm năng. Phía trước nhiều cơ hội đang rộng mở nhưng cũng đầy khó khăn. Mong rằng mọi khó khăn, trở ngại sẽ được lãnh đạo các cấp quan tâm giải quyết để đón nhận thời cơ mới.

N.H.T
(SDB9/6-13)






 

Các bài mới
Các bài đã đăng