ĐỖ MINH ĐIỀN
Về chủ nhân rạp Đồng Xuân Lâu
Rạp Đồng Xuân Lâu (同春樓) còn được biết đến với cái tên là rạp Bà Tuần hay trường Bà Tuần. Sở dĩ gọi như thế vì chủ nhân của rạp hát này chính là Bà Tuần, phu nhân của quan Tuần phủ Đặng Ngọc Oánh (1871 - 1922).
Gia tộc Đặng Ngọc, theo như gia phả1 vốn phát xuất từ Biên Hòa, về sau mới dời ra Huế định cư lập nghiệp. Quá trình dịch chuyển này gắn liền với sự thay đổi nhiệm sở của Đặng Ngọc Oánh, sau khi ông được thuyên chuyển từ Nam ngược ra kinh đô lần lượt được điều bổ đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy chính quyền. Đặng Ngọc Oánh, còn có tên gọi khác là Đặng Đồng Nhựt, ông sinh vào ngày 21/12/1871, được xem là người có công khai mở trang sử của một trong những dòng tộc trâm anh thế phiệt nổi tiếng ở mảnh đất Thừa Thiên.
Đặng Ngọc Oánh là con trai của ông Đặng Văn Phụng và bà Bùi Thị Hợi. Vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, ông được gia đình gửi theo học tại trường Stagiaires (Collège des Administrateurs Stagiaires, Sài Gòn), đây là cơ sở đào tạo nhân viên hành chính cho chính phủ Thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ. Năm 1907, ông làm Thông sự ở Bộ Lại. Tiếp đó, ông dần thăng bổ qua các chức vụ: Thị độc Hàn Lâm Viện, Viên Ngoại lang lãnh chức Lang trung Cẩn Tín ty, rồi đến năm 1910 làm Lang trung Bộ Hộ (Ministère des Finances)2. Năm 1914, ông được thăng Hồng Lô tự khanh, giữ chức Biện lý bộ Hộ3. Năm 1915, qua làm Hữu Thị lang bộ Lại sung Tham biện phủ Phụ chính (Conseil de Régence)4. Hội đồng này gồm có các thành viên: Trương Như Cương, Huỳnh Côn, Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Hồ Đắc Trung và Đặng Ngọc Oánh5. Sau đó, ông được thăng lên làm Tham tri Bộ Lại (Ministère de l’Intérieur), vẫn kiêm Tham biện phủ Phụ chính6.
Năm 1918, ông được bổ làm thự Thượng thư lãnh Tham tri bộ Lại, sung Tham tá Cơ Mật7. Đến tháng 7 năm 1919, đổi bổ làm Tuần phủ Quảng Ngãi8. Vào năm Khải Định thứ 5 (1920), vì thông thạo tiếng Pháp, Đặng Ngọc Oánh lúc này đương giữ chức thự Tổng đốc lãnh Tuần phủ Quảng Ngãi được triều đình cử làm Khâm mệnh, thay mặt vua Khải Định qua Pháp dự lễ khánh thành đền Nghĩa sĩ Trận vong người Nam9. Chép về sự kiện này, sử quan nhà Nguyễn có đoạn viết: “Sai thự Tổng đốc lãnh Tuần phủ Quảng Ngãi Đặng Ngọc Oánh qua nước Đại Pháp dự lễ khánh thành đền Nghĩa sĩ trận vong người Nam. Lúc đầu đền Nghĩa sĩ tùng chinh trận vong ở nước Đại Pháp dựng xong (tháng 2 năm thứ 4 tức tháng 3/1919) bắt đầu xây dựng, địa điểm và quy chế xem năm thứ 4 ở trên. Bộ Thuộc địa gửi điện văn cho Phủ Toàn quyền Đông Pháp chuyển cho Tòa Khâm sứ Trung Kỳ hội thương báo cho Cơ Mật Viện biết tâu lên xin Chỉ. Vua vì [Đặng] Ngọc Oánh thông hiểu tiếng Pháp nên chuẩn cho làm Khâm mệnh. Đến khi tới nước Pháp, đến ngày vào dự lễ, lễ ấy trước đền dựng thêm rạp hoa, trong bày đủ hương đèn tự khí, ngoài đặt chuông trống và treo cờ các màu, lễ nhạc có một nửa tham chước tục lệ Á Đông”10. Chuyến đi này của ông được báo giới ở Pháp đưa tin khá chi tiết11. Cùng năm đó, tháng 10, ông được thưởng Bắc Đẩu bội tinh, hạng năm12.
![]() |
| Ảnh 2: Đại gia đình họ Đặng Ngọc trong ngày lễ mừng thọ thất tuần Bà Tuần (1944). Nguồn: Tư liệu gia đình Đặng Ngọc |
Đặng Ngọc Oánh mất vào ngày 20 tháng 01 năm 1922 (nhằm ngày 23 tháng Chạp năm Tân Dậu), hưởng dương 51 tuổi. Phần mộ ban đầu được an táng tại nghĩa trang Đặng Ngọc, trong một khuôn viên đất đối diện Đàn Nam Giao. Đến năm 1982, nghĩa trang Đặng Ngọc dời lên núi Thiên Thai (đường Tam Thai, phường An Cựu, thành phố Huế). Tấm bia đá dựng trước mộ ông khắc dòng chữ: Hoàng triều truy thụ Vinh Lộc đại phu, Hiệp tá Đại học sĩ, thụy Văn Ý, Nam Hòa Đặng tướng công chi mộ (皇朝追授禜祿大夫協佐大學士謚文懿南和鄧相公之墓). Dòng lạc khoản ghi: Khải Định bát niên bát nguyệt cát nhật tạo. Tử: Đặng Ngọc Vinh phụng lập (啟定八年八月吉日造,子鄧玉荣奉立), nghĩa là ngày lành tháng 8 niên hiệu Khải Định năm thứ 8 (1923), con trai Đặng Ngọc Vinh lập bia.
Ngoài sự nghiệp chính trị, ông còn được biết đến với tư cách là thành viên của hội Đô thành Hiếu cổ (Association des Amis du Vieux Hué). Đồng thời, Đặng Ngọc Oánh cũng chính là tác giả người Việt cộng tác với tờ Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H) từ rất sớm. Ông để lại cho chúng ta một số bài khảo cứu rất có giá trị: Les sacrifice au Drapeau Dao (B.A.V.H, No 4 - 1915); Les distinctions honorifiques Annamites (B.A.V.H, No 4 - 1915); L’intronisation de l’Empereur Khải Định (B.A.V.H, No 1 - 1916)13; La collation des titres nobiliaires à la Cour d'Annam (B.A.V.H, No 2 - 1918).
Bà Tuần nhũ danh là Nguyễn Thị Kim, hiệu Kim Ngọc, tự là Minh Châu, pháp danh Tâm Phú. Bà sinh vào ngày 15 tháng 7 năm 1874 tại Quy Nhơn (Bình Định), con gái ông Nguyễn Đăng Đệ và bà Nguyễn Thị Kiều14.
Tuy có chồng làm quan, song kinh tế gia đình của ông bà Tuần cũng không phải dạng khá giả gì. Đặc biệt, sau khi ông Đặng Ngọc Oánh qua đời, ngoài việc kiếm thêm tiền trang trải cuộc sống, một mình bà tần tảo gánh thêm nhiệm vụ chăm sóc và dạy dỗ 9 người con đang tuổi ăn tuổi học. Năm 1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, những người con và một số người cháu của bà lần lượt đi theo kháng chiến rồi ra miền Bắc, chỉ còn hai người con ở lại Huế là bà Đặng Thị Ngọc Đỏ và ông Đặng Ngọc Lựu cùng các con dâu và cháu nội. Rạp hát cũng bị đóng cửa, đến năm 1948, bà xin mở lại rạp hát Đồng Xuân Lâu. Ngoài việc thờ Phật, Bà Tuần còn là tín đồ thuần thành của Thánh Mẫu Thiên Y A Na và thường xuyên lên Điện Hòn Chén để chiêm bái cũng như tổ chức những buổi cúng lễ tại tư gia.
Bà mất ngày 01 tháng 4 năm 1950, mộ phần an táng tại nghĩa trang Đặng Ngọc. Hai ông bà Đặng Ngọc Oánh, Nguyễn Thị Kim sinh hạ lần lượt tất cả 11 người con, song chỉ còn lại 9 người: Đặng Thị Ngọc Đỏ (thường gọi là cô Thượng, vợ Thượng thư Bộ Lễ Tôn Thất Quảng), Đặng Ngọc Vinh, Đặng Ngọc An, Đặng Ngọc Sách, Đặng Ngọc Vạn, Đặng Ngọc Hùng, Đặng Thị Lệ Chi, Đặng Ngọc Lựu, Đặng Ngọc Dương.
![]() |
| Ảnh 3: Phần mộ ông Đặng Ngọc Oánh và bà Nguyễn Thị Kim. Nguồn: Đỗ Minh Điền (ảnh chụp ngày 21/12/2024) |
Hiện nay, linh vị của ông bà cùng các thế hệ con cháu vẫn đang được phụng thờ ở Từ đường Đặng Ngọc, tại địa chỉ số 155 đường Phan Đăng Lưu (phường Phú Xuân, thành phố Huế). Đây cũng chính là căn nhà cũ mà sinh tiền ông bà đã chắt chiu gom góp gầy dựng và về sau được con cháu sửa sang nhiều lần.
Đồng Xuân Lâu, dấu ấn không phai
Theo niên giám thương mại, kỹ nghệ toàn Đông Dương, rạp hát này đăng ký kinh doanh tại địa chỉ đường Gia Long, Huế15, nay là đường Phan Đăng Lưu, phường Phú Xuân, thành phố Huế. Đường Gia Long trước đây thường được người dân quen gọi với cái tên: Đường Ngã Giữa, là tuyến đường nằm bên ngoài quách Kinh thành, thuộc địa phận phố Cửa Đông. Cùng với phố Gia Hội - Chợ Dinh và phố Trường Tiền, có thể nói phố Cửa Đông là một trong những khu phố buôn bán sầm uất bậc nhất ở Huế lúc bấy giờ. Trên trục đường Gia Long này, nằm kế cận rạp Bà Tuần là những địa chỉ văn hóa nổi tiếng, gắn bó với bao lớp thế hệ người Huế sinh trưởng trước năm 1945: Hiệu sách Thuận Hóa, hiệu buôn Vân Hòa (cửa hàng do bà Trần Thị Như Mân, phu nhân Vệ Thạch Đào Duy Anh đứng tên quản lý). Cách đó không xa là hội quán Quảng Tri, trụ sở tòa soạn và nhà in Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng.
![]() |
| Ảnh 4: Thông tin về rạp hát Đồng Xuân Lâu trên tờ Bulletin Administratif de l’Annam, Année 1924 - No 14, p. 902. Nguồn: BnF. |
Về thời gian thành lập rạp Đồng Xuân Lâu, theo Lê Văn Lân thì rạp tuồng này “đã xuất hiện sau đệ Nhất Thế chiến (1914 - 1918)”16. Tác giả Tôn Thất Bình trong công trình nghiên cứu về Tuồng Huế17 cho biết rạp hát này ra đời vào năm 1923. Trong khi đó, nguồn tư liệu của gia đình lại cho biết Đồng Xuân Lâu bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1925. Dẫu chưa có nguồn tư liệu để xác định chính xác thời gian thành lập rạp Đồng Xuân Lâu. Thế nhưng, căn cứ vào danh sách về các thương nhân, kỹ nghệ, công nghiệp ở Trung Kỳ được đăng trên tờ Bulletin Administratif de l’Annam, cho phép chúng ta khẳng định rằng, vào thời điểm 23/7/1924, rạp hát (théâtre) Bà Tuần đã có mặt trên đất Huế18.
Thời gian này, ngoài rạp Bà Tuần, ở Bao Vinh có rạp của ông Lê Văn Lý, chợ An Cựu có rạp hát Mỹ An (hay còn gọi là Mỹ An hí viện), bên kia sông Đông Ba, đường Diệu Đế thì có rạp Bắc Hòa, rạp hát này đương thời được giới mộ điệu tôn xưng là Đô Thành hí viện (都城戲院)19. Đây là bốn trong số những rạp tuồng20 xuất hiện thường xuyên trên một số tờ báo, có vai trò khá quan trọng trong việc lưu giữ và phát triển bộ môn tuồng ở Huế.
![]() |
| Ảnh 5. Thông tin về buổi biểu diễn tại rạp Đồng Xuân Lâu đăng trên tờ La Volonté Indochinoise, số 2450 (17/4/1934). Nguồn: BnF. |
Các rạp tuồng ở Huế bên cạnh việc tổ chức các suất diễn phục vụ khán giả xa gần, thì vào những dịp lễ quan trọng, thường sẽ được triều đình mời vào cung biểu diễn. Chẳng hạn, vào tháng 12 năm 1929: “Nhân dịp ngày lễ lục tuần của đức Thánh cung Khôn Nguyên Hoàng thái hậu21, các bạn hát ở Đô thành và cả Trung Kỳ có chức phận vua ban cùng tề tựu lại hát ở Nội cung. Đức Thánh cung có để ý đến một nàng thiếu nữ sắm kép, có ban khen và truyền lệnh ban thưởng một đồng ngân tiền. Thật là một cái hân hạnh xưa nay ít có mà cô Yến mới được là lần thứ nhất vậy. Cô nguyên thuộc bạn hát của đức bà Chúa Nhất, nay đương hát cho rạp Mỹ An hí viện (An Cựu). Xin có lời mừng và chúc cho ngôi sao mới mọc càng ngày càng rạng tỏ”22.
Kịch trường ở Huế vốn được xem là tẻ nhạt so với các tỉnh thành ở hai đầu đất nước23. Quả đúng như vậy, trước năm 1945, Huế không phải là cái nôi chào đời của những gánh hát nổi tiếng, mặc dù đây là địa bàn quy tụ đông đảo các trường hát, phục vụ cho các loại hình ca nhạc kịch sân khấu (tuồng, ca Huế, cải lương). Thế nhưng, với ưu thế về mặt chính trị và trong vai trò là kinh đô của xứ Trung Kỳ lúc đó, Huế chính là địa điểm dừng chân của không ít đoàn nghệ thuật, gánh hát từ trong Nam ngoài Bắc, cũng như các đoàn quốc tế.
Có khoảng 196 buổi biểu diễn tại rạp Đồng Xuân Lâu mà chúng ta có thể tìm thấy thông qua các bản tin được các tờ báo đăng tải trong khoảng thời gian từ năm 1929 đến 1944, như: Báo Công Luận, báo Tiếng Dân, báo Tràng An, Hà Thành ngọ báo, L’Écho Annamite, La Volonté Indochinoise, La Dépêche d’Indochine, La Dépêche coloniale. Suốt thời gian đó, Đồng Xuân Lâu là địa chỉ khá quen thuộc của những gánh hát đến từ khắp mọi miền đất nước, đó là gánh Hồng Nhựt, gánh Trung Hưng, gánh An Lạc, ban Nhật Tân, gánh Kim Sanh, gánh Phước Tường, gánh Phước Lập, gánh Tân Thịnh, Văn Hí ban, gánh Trần Đắc, gánh Huỳnh Kỳ, gánh Tân Hữu Hiệp, gánh Phước Cương, An Lạc ban, gánh Phụng Hoàng, Tập Ích ban, gánh Tân Phong Cảnh, Phục Cổ ban (gánh Bửu Tư)…
![]() |
| Ảnh 6: Báo Công Luận (số 2273, ra ngày 22/01/1932) đưa tin về gánh An Lạc, gánh Hồng Nhựt ra Huế biểu diễn cải lương. |
Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua một số buổi biểu diễn nghệ thuật diễn ra tại rạp hát Đồng Xuân Lâu, trên cơ sở khai thác các thông tin báo chí được ấn hành từ năm 1931 đến năm 1942.
Vào hai đêm thứ bảy (15/8/1931) và chủ nhật (16/8/1931), ban Tài tử từ Vinh (Nghệ An) tổ chức “hai đêm hát tuồng tại trường Đồng Xuân Lâu, đường Gia Long (Huế) để lấy tiền giúp đồng bào bị nạn đói ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tịnh”24.
Đầu năm 1932, người dân Huế háo hức trước thông tin hai gánh hát tiếng tăm từ Sài Gòn sẽ ra kinh đô tổ chức hát cải lương. Theo lịch trình, gánh An Lạc sẽ diễn tại rạp Bắc Hòa (12/01/1932), gánh Hồng Nhựt diễn tại rạp Đồng Xuân Lâu (14/01/1932). Tuy nhiên, đến giờ phút cuối, gánh An Lạc không được chính quyền cấp phép biểu diễn, nên họ đành khăn gói từ giã miền Hương Ngự. Qua đến “tối 15 Janvier mới bắt đầu diễn tuồng “Hiếu hay tình” được, khán giả hoan nghinh hết sức. Song tiếc rằng tối ấy trời mưa và lạnh, nên không được đông người bằng đêm 16. Không những đêm thứ bảy ấy là đêm rất tiện cho anh em làm việc, mà lại thêm trời tốt, và nhờ có dây thép miệng của những người đã xem diễn đêm đầu, truyền đi các nơi rằng: Bạn Hồng Nhựt nầy hát hay quá, phông đã nhiều mà lại nhiều cái đẹp”25. Cũng theo tác giả bài báo, đêm 16/01/1932, gánh Hồng Nhựt diễn vở tuồng Tam quốc và Xử bá đao Từ Hải Thọ, với sự góp mặt của các nghệ sĩ cải lương, như cô đào Ba Ngọc Anh, cô đào Vinh, ông Tô Hòa Lực, Tạo, Bửu, Ba Nhỏ (tức Ngân), Long, Mão, Sửu, Mãng.
Vào tối ngày 24/01/1937, ông Lê Quế phối hợp với gánh hát Trung Hưng diễn vở Cái khổ nhân loại, do kịch sĩ Doãn Minh đóng vai chính. Theo thông tin từ ban tổ chức, mục tiêu buổi biểu diễn này nhằm “giúp cho các em bán báo có quần áo và chút ít tiền tiêu tết”26.
Theo một số tư liệu, gánh hát đồng ấu đầu tiên ở Đông Dương chính là gánh Nhật Tân ban. Sau khi gánh hát này tan rã, gánh Tân Việt ra đời. Ở Đà Nẵng cũng có gánh Hòa Bình, quy tụ các đào kép là những nhi đồng hay thiếu niên thuộc lứa tuổi 15 - 20, chuyên hát tuồng Tàu theo điệu Hồ quảng và thường xuyên ra Huế biểu diễn. Nói về Nhật Tân ban, vào tháng 9 năm 1937, gánh hát này có dịp trở lại Huế lần thứ hai. Chuyến đi này của họ đã để lại một dấu ấn khá đậm nét trong lòng những người ái mộ đất Thần kinh.
Thông tin từ phóng viên báo Tràng An, buổi đại diễn tổ chức tại rạp Đồng Xuân Lâu vào tối ngày 09/9/1937. Chương trình này được tổ chức nhằm mục đích quyên góp tiền bạc giúp đỡ hội Bắc Kỳ Tập Thiện phả, đây là một tổ chức đồng hương của những người đến từ các tỉnh miền Bắc hiện đang sinh sống và làm việc tại Huế. Với sự dày công dàn dựng, luyện tập, Nhật Tân ban đã đem đến cho các khán giả chương trình nghệ thuật vô cùng đặc sắc, đó là vở Mũi đao liệt nữ: “Một tích tuồng đặc biệt đủ cả cương thường nghĩa lý, cha trung, con hiếu, vợ thảo, dâu hiền, một tấn tuồng rất có giá trị ít khi diễn được vì phải có nhiều vai chính, văn võ hoàn toàn”27.
![]() |
| Ảnh 7: Trang bìa ấn bản tuồng hát cải lương Phụng Nghi Đình (1926) và Xử bá đao Từ Hải Thọ (1927). Nguồn: BnF. |
Sau đó, đêm ngày 07/5/1938, trong dịp lễ khánh thành trụ sở chi nhánh hãng bảo hiểm Asia Life, tại địa chỉ 116 đường Gia Long, cạnh vườn hoa Ngã Giữa, đã phối hợp với rạp Bà Tuần tổ chức một buổi hát bội/tuồng. Tất cả số tiền bán vé đã được chuyển đến chính quyền Nam triều với mục đích hỗ trợ các bệnh nhân nghèo khổ đang điều trị tại Nhà Thương Huế.
Tiếp đến, vào đêm 08/9/1938, Bắc Kỳ kịch đoàn trong hành trình “Nam du” cũng dừng lại Đồng Xuân Lâu tổ chức diễn kịch quyên góp quỹ cho hội Nữ Công Huế. Thông tin về buổi biểu diễn đặc biệt này được báo Tràng An cho biết: “Hôm 8 Septembre vừa rồi, Bắc Kỳ kịch đoàn đi ngang Huế có cái nhã ý giúp hội Nữ Công một đêm diễn kịch tại rạp Đồng Xuân Lâu. Cuộc diễn có 5 lớp tuồng rất hay, các tài tử đều xuất sắc, nhất là có 2 cô thiếu nữ đóng trò rất hoàn toàn, từ dáng điệu đến cách ăn nói không có chỗ chê, lột hết cái tinh thần của vai tuồng trong vở kịch mà 2 cô ấy đã sắm. Kết quả mỹ mãn, công chúng rất hoan nghênh. Hội Nữ Công xin có lời cảm ơn khán giả và diễn giả đã vì việc nghĩa mà giúp hội một cách sốt sắng”28.
Vào hai đêm 16 và 17 tháng 10 năm 1941, với sự giúp sức của gánh Kim Sanh, Gia Long sports tổ chức hai đêm diễn tại rạp Đồng Xuân Lâu, với hai vở diễn: Phụng Nghi Đình và Mũi tên thù. Gánh Kim Sanh do ông Hoàng Trọng Đồng, người làng Mỹ Lợi (Phú Lộc, Huế) sáng lập. Theo đánh giá, vở diễn Phụng Nghi Đình và Mũi tên thù, được xem là hai trong số những vở tuồng góp phần làm nên tên tuổi của gánh Kim Sanh vang danh một thời. Theo thông báo từ phía ban tổ chức, toàn bộ số vé vào cửa được bày bán công khai tại hiệu sách Lê Thanh Tuân (số 119, đường Gia Long, Huế)29. Một phần kinh phí của chương trình này được ban tổ chức tài trợ cho các hoạt động từ thiện của hội Lạc Thiện.
Nối tiếp các gánh hát ở Nam Kỳ, vào đầu tháng 5 năm 1942, gánh hát Phước Tường trên đường trở về Nam sau một chuyến biểu diễn dài ngày tại các tỉnh miền Bắc, đã dừng lại Huế. Tờ Tràng An liên tục cập nhật thông tin về sự kiện đáng nhớ này bằng những bản tin vắn trên các số ra của mình: “Sau khi biểu diễn ở các tỉnh Bắc Kỳ được nhiệt liệt hoan nghênh, bạn cải lương Nam Kỳ Phước Tường trở về Nam sẽ ghé ra mắt bà con tại Đế đô 4 hôm bắt đầu từ 5 Mai [tháng 5] tại rạp Đồng Xuân Lâu, trong những vở tuồng đặc sắc do một đoàn nghệ sĩ có biệt tài thủ bổn. Trước khi trở về Nam M. Trần Hữu Tường dit Xường, giám đốc ban Phước Tường muốn để lại cho bà con tại chốn thủ đô một kỷ niệm êm đềm, nên hết sức trông nom các buổi diễn cho được hoàn toàn. M. Xường em ông Phước Cương là một cựu cầu tướng quốc tế Nam Kỳ và hội Etoile de Gia Định mà nhiều lần Tin mới thể thao đã nhắc đến”30. Tại rạp hát Đồng Xuân Lâu, đoàn Phước Tường cung hiến cho khán giả cố đô hai đêm diễn với các vở: Địch Thiên Kim xử tử tội Bàng Quý Phi, Quan Công đại chiến Bàng Đức (đêm 09/5/1942); Hồng Quang kiếm hiệp (chủ nhật, 10/5/1942)31.
![]() |
| Ảnh 8: Bài viết của tác giả Trúc Chi về gánh hát Ngọc Hùng đăng trên báo Tràng An, số 326 (03/6/1938). |
Với một niềm say mê nghệ thuật, từ năm 1936 (?), một người con của ông bà Tuần phủ, đó là Đặng Ngọc Hùng, đã thành lập gánh hát lấy tên Ngọc Hùng, trong đó, các đào kép thuộc “biên chế” phần lớn đều là người Huế. Gánh hát Ngọc Hùng có một thời làm say đắm lòng người và lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt khán giả qua những vở diễn như Ai là chồng tôi, Phục Huê Dung, Đại chiến Bàng Đức, Rừng máu đỏ (Trích từ bộ phim La Reine de la Jungle)... Đánh giá về gánh hát này, trong một bài viết đăng trên báo Tràng An, tác giả Trúc Chi cho chúng ta biết sơ lược về quá trình ra đời, các vai diễn của gánh Ngọc Hùng, như sau:
“Một gánh hát cải lương thành lập ở Huế, đã là một việc khó rồi, mà các tài tử một phần đông lại là người Huế và gánh hát sống được một cách vững vàng, thật là một việc khó hơn nhiều. Tôi muốn nói đến gánh hát Ngọc Hùng do ông Đặng Ngọc Hùng, một nhân vật ở Thần kinh vì quá yêu nghệ thuật và mỹ thuật đứng lập ra đã hai năm nay, được công chúng hoan nghinh nhiệt liệt. Nói đến gánh hát Ngọc Hùng, chúng ta nên biết qua ban tài tử của gánh hát ấy. Xin nói đến hai vai đào danh tiếng: Cô Sáu Nết và cô Sáu Kỳ. Những người yêu say điệu cải lương với hai tên ấy hẳn không lạ gì nữa, chúng ta đã được thưởng thức tài điệu của hai cô trên sân khấu nhiều lần và đứng trước nghệ thuật ấy chúng ta là chỉ còn biết khâm phục.
Cô Sáu Nết, một đào nhứt của gánh hát Ngọc Hùng, một ngôi sao sáng lạng [xán lạn] trong các ngôi sao có biệt tài về điệu hát cải lương. Thật tôi không quá lời trong lúc nói rằng tài điệu của cô ấy ngày nay đã nghiễm nhiên là nghệ thuật, đúng như cái nghĩa đầy đủ của hai chữ ấy. Còn nói đến giọng hát của cô, thật tôi không ngờ trong gần một năm trời mà cô đã tấn ích một cách lạ lùng. Sáu Nết ngày nay không phải là Sáu Nết ngày mới nhập vào gánh Ngọc Hùng, một nửa thành tích vẻ vang đáng cho gánh Ngọc Hùng ghi nhớ.
Bây giờ tôi xin nói đến kép Tám Huỳnh Kỳ, Võ Phong và Tư Chánh, ba nghệ sĩ có biệt tài. Trong những lúc coi ba chàng biểu diễn chúng ta không khỏi tấm tắc khen thầm, và nếu có muốn đem so với các tài tử của những gánh hát đàn anh trong Nam Kỳ chúng ta cũng khó phân biệt được. Với ba tài tử ấy, chúng tôi muốn nói tài điệu của họ đã đi gần đến chỗ tuyệt đích của nghệ thuật, thật thế, gánh hát Ngọc Hùng đã làm vẻ vang cho điệu hát cải lương ở đây.
Để chứng thực cho lời nói của tôi, xin nhắc lại một tấn tuồng cũ mà gánh hát Ngọc Hùng mới biểu diễn ở đây, một tấn bi kịch đã làm nao núng lòng khán giả trong ba tiếng đồng hồ. Đào Sáu Nết đóng nàng Ngọc Sương, một vai cốt yếu trong truyện đã mô tả ra một người vợ biết thờ chung tình, lúc hăng hái tiễn chồng ra đầu quân, lúc buồn rầu, đau đớn được tin chồng bị nạn và bỏ xác ở xứ người, lúc chán nản quyết đi tu nếu không gặp được chồng cũ, lúc vui vẻ và kinh ngạc được thấy chồng lành mạnh mà trở về, những lúc ấy là những lúc lòng ta thấy rúng động. Kép Tám Huỳnh Kỳ và Võ Phong đóng Hoàng Anh và Sĩ Tùng, hai người đã lột được tinh thần của tuổi trẻ: Hăng hái và quyết liệt. Sau ba giờ ngồi coi biểu diễn, lúc ra về chúng ta có thể bảo rằng vừa mới tỉnh một giấc mộng buồn để thấy lại sự thật. Trước khi chấm hết cho bài này chúng tôi không tiếc lời để khen ông Đặng Ngọc Hùng, một người đã chịu dày công khó nhọc đủ mọi phương diện để lập lên một gánh hát có tiếng, và chúng tôi rất mong một ngày gần đây, gánh hát Ngọc Hùng với đoàn tài tử ấy sẽ đi đến nơi cùng tận của nghệ thuật”32.
Dưới góc nhìn nào đó, sự thịnh đạt của rạp Bà Tuần trong suốt một thời gian dài phần nào phản ánh chân xác sự phát triển của nghệ thuật tuồng truyền thống. Có thể thấy, trong khoảng 4 thập kỷ đầu của thế kỷ XX, cũng như tuồng, bộ môn cải lương từng bước xác lập một chỗ đứng vững chắc trong đời sống sinh hoạt của người dân Huế.
Nhắc tới những đóng góp của Bà Tuần đối với sự nghiệp văn hóa, trước hết phải nói đến vai trò của rạp Đồng Xuân Lâu như một địa chỉ bảo tồn nghệ thuật tuồng cổ. Rạp hát này cũng góp một phần công lao lan tỏa loại hình cải lương, một dạng kịch hát có nguồn gốc từ miền đất Nam bộ. Phải nói rằng, người dân Huế nói riêng biết đến cải lương có lẽ cũng từ những buổi biểu diễn như thế.
Đ.M.Đ
(TCSH58SDB/09-2025)
------------------------
1 Một số thông tin về tiểu sử ông Đặng Ngọc Oánh, bà Nguyễn Thị Kim và rạp Đồng Xuân Lâu được sử dụng trong bài viết này, chúng tôi kế thừa từ tư liệu gia tộc. Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến ông Đặng Ngọc Phú Hòa, đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện chuyên khảo này.
2 Bulletin Administratif de l’Annam, Année 1910 - No 23, p. 592.
3 Bulletin des Amis du Vieux Hué, No 1 (Janvier-Mars, 1915), p. 76.
4 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, đệ lục kỷ phụ biên, Bản dịch Cao Tự Thanh, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, 2012, tr. 694.
5 Indochine française (1916), Annuaire général de l’Indo-Chine: 1916 (Partie commerciale), Imprimerie d’Extrême - Orient (Hanoï-Haiphong), p. 236.
6 Indochine française (1917), Annuaire général de l’Indo-Chine: 1917 (Partie commerciale), Imprimerie d’Extrême - Orient (Hanoï-Haiphong), p. 232.
7 Indochine française (1918), Annuaire général de l’Indo-Chine: 1918 (Partie commerciale), Imprimerie d’Extrême - Orient (Hanoï-Haiphong), p. 234.
8 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, đệ thất kỷ, Bản dịch Cao Tự Thanh, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, 2012, tr. 247.
9 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, đệ thất kỷ, Sđd, tr. 276.
10 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, đệ thất kỷ, Sđd, tr. 276.
11 Xem thêm:
- Le Miroir, Hommage aux coloniaux et aux Indo-chinois, No 339 (20 juin 1920), p. 4.
- Missions étrangères de Paris, Annales de la Société des missions étrangères, No 131 (01 janvier 1920), Paris, p. 442.
12 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, đệ thất kỷ, Sđd, tr. 304.
13 Revue Indochinoise, XIXe Année, No 7 - 8 (juillet - août 1916), p. 7 - 28.
14 Ông Nguyễn Đăng Đệ, sinh năm 1843, tại Bình Định, con của ông Nguyễn Đăng Cẩm và bà Thái Thị Huệ. Mộ phần hiện nay vẫn còn ở núi Xuân Quan, Quy Nhơn. Ông Đệ mất ngày Rằm tháng 7 năm Mậu Thân (1908). Bà Nguyễn Thị Kiều là con của nhà đại phú Nguyễn Văn Thiện, tại Khánh Hội, Sài Gòn. Bà mất ngày 24 tháng 5 năm Mậu Thìn. Cả hai ông bà Đệ và Kiều đều được an táng tại nghĩa trang Đặng Ngọc ở Huế. Sinh thời ông bà Đệ và Kiều sinh được cả thảy sáu người con, nhưng chỉ còn lại ba người: Nguyễn Xuân Thạnh, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Thị Thu.
15 L. Lacroix-Sommé, R.J. Dickson, A.J. Burtschy (1933), Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, Imprimerie Albert Portail, Saigon, p. 683.
16 Lê Văn Lân (2021), “Trường Bà Tuần [Đồng Xuân Lâu] một thuở mê tuồng tích hát bội ở Huế”, Nghiên cứu Huế, tập 9, Trung tâm Nghiên cứu Huế, Nxb. Thuận Hóa, tr. 410.
17 Tôn Thất Bình (2006), Tuồng Huế, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 66.
18 Bulletin Administratif de l’Annam, Année 1924 - No 14, p. 902.
19 Hà Thành ngọ báo, Cuộc vui xứ Huế, hát xiếc với tà thuật, số 449 (05/11/1928), tr. 1.
20 Vào những năm đầu thế kỷ XX, theo thống kê của tác giả Tôn Thất Bình, ngoài các rạp của triều đình, ở Huế có khoảng 14 rạp hát khác nhau, đó là rạp Đồng Xuân Lâu, rạp Mệ Khướu, rạp Nam Bình Ca Quán, rạp Bắc Hòa, rạp ông Văn, rạp ông Cần, rạp ông Thông Lý, rạp ông Sơn, rạp ông Năm, rạp bà Chúa Tám, rạp ở chợ Kim Long, rạp ở An Cựu, rạp ở Vĩ Dạ, rạp ở Dạ Lê. Xem thêm: Tôn Thất Bình (2006), Tuồng Huế, Sđd, tr. 110.
21 Tức lễ mừng thọ 60 tuổi đức Thánh cung (1870 - 1935). Bà húy là Nguyễn Hữu Thị Nhàn, con gái đại thần Nguyễn Hữu Độ, chánh thất vua Đồng Khánh và đích mẫu của vua Khải Định. Năm Khải Định thứ 8 (1923) tấn tôn Khôn Nguyên Hoàng thái hậu. Về sau, vua Bảo Đại tấn tôn Khôn Nguyên Xương Minh Thái hoàng thái hậu. Bà mất vào lúc 21 giờ, ngày 19/11/1935.
22 Hà Thành ngọ báo, Một việc ban thưởng cho bạn hát đích đáng, số 714 (21/12/1929), tr. 2.
23 Báo Tràng An, Ban đồng ấu Hòa Bình đến Huế, số 5 (Bộ mới, 18/4/1942), tr. 2.
24 Báo Công Luận, Hai đêm hát giúp, số 2134 (04/8/1931), tr. 1.
25 Báo Công Luận, Hai gánh hát cải lương Saigon ra Huế, số 2273 (22/01/1932), tr. 2.
26 Báo Tràng An, Một cuộc vui có ý nghĩa, số 193 (22/01/1937), tr. 2.
27 Báo Tràng An, Nhật Tân ban đại diễn tối thứ năm 9 Septembre 1937 tại Đồng Xuân Lâu, rạp Bà Tuần (Ngã Giữa), số 253 (07/9/1937), tr. 2.
28 Báo Tràng An, Bắc Kỳ kịch đoàn giúp hội Nữ Công, số 359 (27/9/1938), tr. 2.
29 Báo Tràng An, 16, 17 Octobre 1941 tại rạp Đồng Xuân Lâu, số 875 (16/10/1941), tr. 1.
30 Báo Tràng An, Trước khi trở về Nam Kỳ, gánh hát cải lương Phước Tường đã ghé Huế, số 11 (Bộ mới, 05/5/1942), tr. 4.
31 Báo Tràng An, Trước khi trở về Nam Kỳ, gánh hát cải lương Phước Tường đã ghé Huế, số 14 (Bộ mới, 12/5/1942), tr. 4.
32 Báo Tràng An, Đi xem gánh hát Ngọc Hùng diễn tấn bi kịch “Ai là chồng tôi” tại rạp Đồng Xuân Lâu, số 326 (03/6/1938), tr.2.