NGUYỄN HỮU PHÚC
Trong văn hóa dân gian Việt Nam, tín ngưỡng thờ cây không mấy xa lạ bởi trong sâu thẳm văn hóa của người Việt vẫn còn hiện hữu quan niệm “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”.
Tại vùng Huế, đi khắp các con đường từ vùng đô thị, đồng bằng cho đến nông thôn, vùng ven biển, ở dưới gốc cây cổ thụ đều có những bàn thờ để thờ cây. Để làm rõ tín ngưỡng thờ cây của người Việt ở vùng đất Huế, bài nghiên cứu này sẽ làm rõ nguồn gốc của tục thờ cây ở Việt Nam, những sắc thái biểu hiện và ý nghĩa của hình thức thờ cây trong văn hóa dân gian Huế.
1. Nguồn gốc tục thờ cây của người Việt ở Huế
Thờ cây là tín ngưỡng có tính tối cổ, phổ biến trên thế giới và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tín ngưỡng này là biểu hiện của sự gắn bó giữa con người với thế giới tự nhiên. Ở mỗi quốc gia, vùng miền, việc thờ cây lại có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, như người Ai Cập thờ cây cọ, người La Mã và Hi Lạp thờ cây linh sam,… Với đất nước có sự đa dạng về thảo mộc như Việt Nam, mối liên hệ giữa người với cây, cây và thần linh, cây và sự linh thiêng được gắn kết chặt chẽ trong đời sống tâm linh. Do đó, các tộc người ở Việt Nam lại thờ cây theo những loài khác nhau như người Dao thờ cây đa, cây sấu, người Mường thờ cây si, người Kinh thờ cây đa, cây gạo1. Như vậy, mỗi dân tộc đều rất coi trọng tín ngưỡng thờ cây và gán cho nó có một năng lực siêu linh, có thần linh ngự trị ở đó.
Đối với người dân Việt, phần lớn cư dân sống bằng nghề nông trồng lúa nên công việc của họ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố “đất” và “nước”, vì thế hai yếu tố này được thờ cúng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa thì những vị thần liên quan đến cây cối dưới dạng thần linh cũng được thờ phụng từ rất sớm. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ việc thờ những “linh hồn” ngự trị trong các thân cây và tán lá. Từ góc độ này suy ra được rằng, cộng đồng người Việt rời quê hương ở vùng Bắc Bộ vào Nam thì đến đây họ cũng lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế chủ lực của mình, vì thế họ vẫn tiếp tục có những đức tin vào tín ngưỡng thờ cây.
Tuy nhiên, tục thờ cây ở Huế còn phải bắt nguồn từ những đợt di dân, nhất là thời điểm các chúa Nguyễn đẩy mạnh công cuộc Nam tiến, mở cõi phương Nam. Bên cạnh tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ thần linh, thờ cúng tổ tiên, Thành Hoàng, thì thờ cây cối cũng là một trong những niềm tin để giúp họ vượt qua mọi khó khăn, thử thách ở một vùng đất mới, nơi được mệnh danh “Ô Châu ác địa”, “con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh”. Cũng vì thế, người dân Huế đi đâu hễ thấy cây là lập miếu nhỏ/am trên các gốc cây cổ thụ để thờ cúng. Với quan niệm “cây đa cậy thần, thần cậy cây đa” nên người Huế rất kiêng cữ những cây cao bóng cả, không dám chặt đốn cành gốc, vì nghĩ đó là nơi quỷ thần cư trú. Léopold Cadière đã nhận xét hiện tượng này như sau: “Việc sùng bái, sự tôn kính đối với cây, nỗi sợ hãi không những không dám đốn ngã mà kể cả không dám chặt một cành nhỏ nào, chứng tỏ cây còn là gì hơn nữa chứ không phải chỉ là nơi Ngài ngự, có gì đó linh thiêng trong bản thân cây. Khi thần phạt vì một nhát rìu bổ vào thân hay việc chặt cành là phạt vì một vết thương trong cơ thể chứ không phải chỉ thuần là phạt việc phá hoại nơi thần ngự”2.
Trong một lần du hành đến miền Trung vào cuối thế kỷ XVIII, J. Barrow đã nhận xét về tín ngưỡng thờ cây của cư dân nơi đây như sau: “Thực vậy, cây cối đã là một loại đền miếu đầu tiên được dành cho các thần linh. Đối với con người khi mới thoát khỏi trạng thái tự nhiên nguyên sơ, thì những đối tượng to lớn nhất hiện ra trước mắt họ tỏ ra là những vật được chú ý nhất để thờ phụng. Như vậy là dưới đồng bằng có những cây cổ thụ đáng được tôn thờ, thì trên núi là những tảng đá rắn chắc trên đỉnh cao”3. Về cách thức thờ cúng cũng được J. Barrow ghi chép qua chi tiết sau: “người ta đã treo hoặc đặt cố định vào giữa các cành những hộp nhỏ bằng gỗ hoặc những giỏ đan bằng dây liễu gai, một số chứa những ảnh tượng làm bằng các vật liệu khác nhau, một số khác mang những tờ giấy vẽ hoặc thếp vàng cắt ra thành những hình thù khác nhau, những tấm gỗ trên viết những chữ Hán, và nhiều chỉ dẫn khác ghi về các thần linh được cúng tế”4.
Có thể nói, những gốc cây đa, cây si, cây sung,… là những loài cây được thờ cúng nhiều nhất, bởi vốn là cây cao bóng cả, có sức sống mãnh liệt vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu nên mang ý nghĩa thể hiện sự trường tồn, bất diệt. Vì đã gán cho cây mang những đặc tính linh thiêng, nơi trú ngụ thần linh, ma quỷ nên mọi sự xúc phạm đến nơi đây đều bị quở phạt. Cũng bởi sống trên vùng đất có quá nhiều sự hy sinh trong công cuộc khai phá, mở đất, chiến tranh, tai nạn,… mà chưa có nơi thờ tự nên họ thiết lập ban thờ trên cây, hoặc dựng miếu nằm cạnh thân cây để thờ vong linh của những người đã chết nhưng chưa siêu thoát. Rõ ràng là tục thờ cây đã được người Huế huyền thoại hóa, nhân cách hóa, mang tính triết lý nhân văn, thể hiện đạo đức của con người trong mối quan hệ giữa người với người và giữa người với môi trường sinh thái.
2. Tục thờ cây trong đời sống tinh thần của người Huế
Xuất phát từ lòng tin về một thế giới vô hình và hiện diện ở khắp nơi, trong đó có thần ngự trị, ma ở trong cây cối luôn theo dõi và phù trợ cho cuộc sống con người nên người Huế thường dựng ngôi miếu nhỏ cạnh các cây cổ thụ, hay gắn một cái am nhỏ, một tấm ván để thờ phụng. Qua khảo sát, những chiếc am hay tấm ván thờ trên các thân cây có kích thước khá nhỏ, chưa tới 1m. Những cái am như một ngôi miếu nhỏ, trên có mái với những họa tiết trang trí như rồng, phượng chầu nhật nguyệt, hoa sen, con dơi, con ngựa, đám mây,… đỡ phần mái sẽ có hai cột và phần thân của am. Bên trong am chỉ đặt bát hương, dĩa đựng hoa quả, bình hoa, ly nước trong. Những chiếc am này được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như xi măng, sắt, inox với những kích thước khác nhau.
Đối tượng thờ cúng trong những cái am hay ngôi miếu cạnh những cái cây khá đa dạng, đó có thể là những vong linh chết bất đắc kỳ tử, chết đường, chết sông, chết do chiến tranh,... mà thường được dân gian Huế gọi là Cô Bất Đắc, Cậu Bất Đắc, Cô Chiến sĩ, Cậu Chiến sĩ. Vào những ngày rằm, mồng một, ngày Thất thủ kinh đô (23/5), lễ Vu Lan, cuối năm,… người dân sống gần đây sẽ dâng cúng hoa quả, bánh trái, hương đèn, đồ mã,… ở nơi có đặt các am, miếu thờ này trên các thân cây. Tuy nhiên, một số am lại thờ các vị nữ thần như Bà Hỏa, Bà Thủy, điển hình như ở khu vực Đá Bạc ở Phú Lộc có cây đa cổ thụ, nơi đây có ngôi miếu thờ Bà Thủy được ngư dân lập cũng có tuổi đời trên 100 năm. Từ việc phụng thờ các Bà ở các cây cối ta có thể rút ra được rằng tín ngưỡng thờ cây và thờ nữ có mối liên hệ gắn bó với nhau. Và việc thờ cây ở đây không chỉ gắn liền với những linh hồn không được thờ cúng, mà còn là nơi ngự trị của các nữ thần.
Xung quanh những gốc cây cổ thụ, các vật dụng được người dân thường mang đến để xung quanh như: tượng Thần Đại, Ông Địa, Ngựa, trang thờ Bà, trang thờ Tiên sư, Táo quân, các đồ thờ đã cũ hoặc hư hỏng bởi lẽ họ không dám vất đi lung tung, sợ bị quở phạt.
Ngoài việc dựng các ngôi miếu nhỏ/ am cạnh các gốc cây, người Huế còn dâng cúng các tranh có in hình cây hoặc tạo ra những cây bằng phiên bản thật bằng chất liệu tre và giấy. Những tấm tranh in hình cây này có xuất xứ từ làng Sình, họ thường vẽ tranh có một hình nam thần (cậu) và nữ thần (cô) gọi là tranh cây Đại Thọ, còn cây có 5 Bà là cây Ngũ Hành. Sau này, những người làm nghề hàng mã đã tạo ra những cây có thể đứng được, có tán, lá, hình người đứng ở trên cây. Những cây Đại Thọ này thường xuất hiện trong lễ cắt duyên âm trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu. Còn cây Lục Động, cây Tam Sơn hoặc cây Ngũ Hành thường xuất hiện trong lễ Thành (lễ Cầu an của người phụ nữ) hoặc lễ Trình Đồng (lễ chính thức xác minh một người bình thường trở thành một thanh đồng có căn quả theo Mẫu và khả năng hầu đồng). Ngoài ra cây Đại Thọ còn xuất hiện trong lễ Tống mộc, nhằm biểu thị như sự thay thế cho người đã mất khi không muốn họ ở trong căn nhà mới. Bên cạnh đó, việc dâng cây trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ở Huế mang ý nghĩa giàu sang, cầu tài lộc với những loài cây quý như cây cành vàng lá ngọc, cây Yến Tiên (dạng cây trồng trong chậu) thường được thờ ở ban thờ của Thánh Mẫu.
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Huế, Thánh Mẫu Thiên Y A Na được xem là vị thần chủ, có nhiều quyền năng và được triều Nguyễn ban tặng nhiều sắc phong thần ở những nơi có thờ phụng. Qua khảo sát các ngôi điện thờ Mẫu Tứ phủ, ở ban thờ Mẫu Thiên Y A Na thường có thờ một gốc trầm hương. Lý giải việc thờ gỗ trầm hương này, qua phỏng vấn nhiều chủ ngôi đền cho biết rằng theo truyền thuyết, Mẫu Thiên Y A Na là hóa thân từ một khúc trầm hương. Kể về truyền thuyết hóa thân của Mẫu Thiên Y A Na, các cung văn đã viết như sau:
“Kiếp ba sinh duyên lành còn đợi,
Mượn gỗ Kỳ mà gởi mình hương.
Trôi về bể Bắc đại dương.
Yên kinh chốn ấy chưa tường báu linh,
Chiếc tiên xa lênh đênh mặt nước.
Chúng thổ dân theo vớt đua bơi,
Nặng như sắt đá chẳng rời.
Trăm ngàn quân cũng giữ trời bó tay,
Tiếng đồn bay đến tai thái tử.
Dạo ghé thuyền xem thử dường nao,
Giang tay vịn đỡ gỗ vào.
Gỗ hương nhẹ lướt sóng dào lần theo,
Rước về đến yên kinh đầu để.
Bữa bữa thường ngắm ghé thở than,
Mùi hương thơm ngát đài vàng.
Trong cây hương ấy nguyệt quang rạng ngời”.
(Văn Mẫu Thiên Y, bản chép tay của tác giả)
Vậy tại sao trong dân gian lại lưu truyền truyền thuyết này và sự hóa thân của Thánh Mẫu Thiên Y A Na là gỗ trầm hương mà không phải là một loài cây khác. Xét về nguồn gốc, trầm hương là một loại gỗ thơm quý hiếm hình thành từ cây dó bầu (Aquilaria crassna), khi cây bị tổn thương do côn trùng, nấm, vi khuẩn hoặc tác động cơ học, để bảo vệ mình, cây tiết ra nhựa thấm vào các thớ gỗ xung quanh vùng hở, tạo nên một loại gỗ chứa nhựa để chữa lành với hương thơm đặc trưng. Sau hàng chục năm, lớp nhựa này hấp thụ thổ nhưỡng, sau đó ăn sâu vào tâm gỗ và tạo ra gỗ trầm5. Mặc dù, cây trầm xuất hiện ở nhiều địa phương trong cả nước nhưng có hàm lượng tinh dầu nhiều nhất, tốt nhất và có giá trị cao nhất là ở Khánh Hòa. Và cũng theo nhiều nghiên cứu chỉ ra, vương quốc cổ Champa là trung tâm cổ của trầm hương. Trong lịch sử, văn hóa Chăm và Việt Nam đã diễn ra sự giao lưu và tiếp biến một cách mạnh mẽ, mà hình tượng Thiên Y A Na là một minh chứng rõ nét. Theo nhiều nghiên cứu chỉ ra, từ hệ quả của cuộc Nam tiến, người Việt đã từng bước tiếp nhận, dung hợp và Việt hóa nữ thần Poh Inư Nagar của người Chăm thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu của mình. Mà Poh Inư Nagar là vị nữ thần cai quản cây trầm, vì thế người đi trầm hương thường làm lễ xin bà ban phước mới có thể tìm thấy trầm hương, nếu không được bà cho phép thì người ta sẽ không tìm thấy. Từ những nhận định này cho thấy giữa con người và tự nhiên có mối quan hệ gắn bó với nhau, nhờ tự nhiên mà con người có thể sống và phát triển được. Xét về góc độ giới, người phụ nữ và cây là một thể thống nhất, thông qua những câu chuyện linh ứng, thưởng phạt của cây cối để biểu thị một thông điệp rằng sống trong xã hội này không thể xem thường người phụ nữ, bởi lẽ trong sâu thẳm họ có một quyền năng nhất định mà buộc mọi người phải kính trọng, thừa nhận. Từ câu chuyện Thánh Mẫu Thiên Y A Na hóa thân từ gỗ cây trầm đã phản ánh tư duy của người Việt là người phụ nữ vốn chịu nhiều đau khổ, tủi nhục, trôi dạt lênh đênh trong xã hội phong kiến nhưng họ có thân phận rất cao quý và mùi thơm dịu dàng, đầy quyến rũ đối với người khác giới.
Ngoài Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Bà Hỏa, Bà Thủy là những vị nữ thần có gắn liền với tục thờ cây thì ở Huế phải nhắc đến thêm Bà Mộc Tinh Chúa Lá. Bà nằm trong Năm Bà Ngũ Hành, cai quản thế giới con người, có nhiều quyền năng và thường che chở, bảo trợ mọi người vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Hình ảnh Bà gắn liền với sự xanh tươi của hoa lá, biểu thị sự sinh sôi và phát triển, đơm hoa, kết quả. Vì thế những người nông dân thường rất tôn kính Bà, xem Bà là vị phúc thần, bảo trợ nền nông nghiệp, nên ở rất nhiều làng xã có dựng miếu thờ riêng nên Bà cũng được gọi với danh xưng khác là Bà Chúa Lá. Bàn về nguyên nhân thờ Bà Chúa Lá, Huỳnh Đình Kết đã lý giải như sau: “Lá cây có một vị trí khá quan trọng và gắn bó mật thiết với đời sống cư dân xứ Huế, từ thức uống bắt buộc của sản phụ thời kỳ sinh và nuôi con, đến việc chế biến các loại bánh trái như bánh nậm, bánh ít, bánh tày, bánh chưng, bánh tét,… và là bao bì gói, đùm các loại hàng khô, hàng nước, rau dưa ở chợ búa, cũng như dùng để lợp nhà che nắng che mưa,… và đặc biệt dùng lá cây Ngọn để chằm tơi và chằm chiếc nón lá đặc trưng xứ Huế. Riêng loại lá này phải khai thác ở rừng sâu, đi về rất hiểm nguy, lại thêm sự đe dọa thường xuyên của hổ, gấu, beo,… Vì vậy nhân dân cần phải có sự chở che, động viên, an ủi, do đó mà xuất hiện vị thần Bà Chúa Lá”6. Trong chầu văn Huế, viết về quyền năng của Bà Mộc Tinh Chúa Lá, cung văn đã miêu tả như sau:
“Đức Chầu Ngoại danh phương thiên cổ,
Giáng cõi trần cứu độ chúng sanh.
Một bầu thủy tú sơn thanh,
Cùng hai tiên nữ tập tành vào ra.
Bầu thế giới, sớm khuya đỏng đảnh,
Vận trung thương, say tỉnh cầm trông.
…
Đâu đâu đều cũng kêu oai đức Bà,
Ai mắc phải tay Bà quyết quả.
Xin đức Bà hỷ xả từ bi,
Bà làm những bệnh hiểm nguy.
Tâm thành bất bệnh, tứ chi liệt hàn,
Ai biết Bà vái van cầu nguyện.
Xin đức Bà ứng hiện giùm cho,
Bệnh còn bối rối tơ vò.
Xin Bà mặc trợ, âm phò bệnh căn”.
(Văn Bà Đức Chầu Ngoại, bản do tác giả chép tay)
Hay:
“Chầu Mộc tấn cõi Tây lầu
Trên nguồn dưới bể vọng cầu cũng ghê”
(Văn Ngũ Hành Tiên Nương, bản do tác giả chép tay)
“Đức Đệ Nhị Mộc Tinh thần nữ,
Giáng cõi trần gìn giữ xanh hoa.
Bốn mùa qua lại lại qua,
Trăm hoa đua nở trái hoa dân dùng.
Cây gì dùng lá dùng bông,
Cây gì ăn trái ra công vẽ bày”.
(Văn Sự tích Năm Bà, bản do tác giả chép tay)
Trong thực hành nghi lễ lên đồng, Đức Chầu Ngoại Mộc Tinh Chúa Lá khi về đồng sẽ mang áo dài xanh lá, ngoài khoác áo mạng phụ có thêu hình chim phụng nổi, đầu đội khăn vành xanh, chân mang hài phụng nhìn rất uy nghi, cao quý. Khi múa đồng, tay Bà múa mồi, múa quạt và hai cành lành nhẹ nhàng, uyển chuyển, khoan thai. Ở một số đền, Bà còn đóng vai trò là vị nữ thần thủ điện (cai quản một ngôi đền), thường về trước tất cả các giá đồng để chứng minh và xem xét buổi lễ. Thánh Bà Đức Chầu Ngoại Mộc Tinh Chúa Lá cũng là vị phúc thần độ mạng cho những người có căn cõi với Bà.
Trong tín ngưỡng dân gian vùng Huế, tục thờ cây còn xuất hiện trên ban thờ Táo Quân và Bà Bổn Mạng. Sau ngày 23 tháng Chạp, người Huế có tục quét dọn bàn thờ, thay cát, thay cặp hoa giấy mới có xuất xứ từ làng Thanh Tiên để chuẩn bị đón Tết. Để làm ra một cành hoa giấy như vậy đòi hỏi rất nhiều công đoạn hết sức tỉ mỉ, từ việc chọn tre, nhuộm màu đến cắt dán và tạo hình. Giấy màu được cắt và xếp thành những hình hoa, được dán hồ rồi ghép phần lại với nhau, từ đó tạo thành một bông hoa đẹp nhất. Đặc trưng của hoa giấy Thanh Tiên là những bông hoa được mô phỏng theo các loài hoa có ở tự nhiên, nhiều màu sắc, tươi tắn và rực rỡ. Ngoài sản phẩm hoa giấy Thanh Tiên, người dân nơi đây còn làm hoa đũa để cúng trên Trang Bà vào ngày mồng 9 tháng Giêng hằng năm. Ngoài lễ vật chuẩn bị là bộ đồ hàng mã, giấy tiền, xôi, thịt, cau trầu, rượu thì một lễ vật không thể thiếu là hoa đũa. Hoa đây chính là hoa tre, một loại hoa rất hiếm gặp, mang ý nghĩa sự trường thọ. Trong nhận thức của người Huế, cây không chỉ mang tính thiêng mà còn có tình cảm với con người. Đối với cây cảnh thì nó như người bạn tâm giao với người chủ, cây ăn quả như cây cung cấp thức ăn, che bóng mát, nuôi sống con người hay những hàng chè tàu xanh ngắt như người bảo vệ sự bình yên của ngôi nhà. Khi trong gia đình có người mất, thì cây cũng phải chịu tang, điều đó cho thấy cây có quan hệ mật thiết, gắn bó với cuộc sống thường nhật, cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn với con người. Rõ ràng là, tín ngưỡng thờ cây được biểu thị bằng nhiều hình thức khác nhau đã cho thấy người Huế lấy làm mãn nguyện khi được phụng thờ theo đúng đức tin của mình ở mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh7. Đó cũng là nét đặc trưng, mang đậm bản sắc văn hóa Huế, phản ảnh tư duy, nhận thức của con người Huế trước các hiện tượng tự nhiên.
3. Kết luận
Huế là đô thị có mật độ cây xanh cao nhất cả nước, vì từ các đô thị cho đến nông thôn, không nơi nào mà không có những hàng cây xanh ngắt, phủ bóng với những tán cây rộng. Cũng vì thế mà từ năm 2016, thành phố Huế được vinh danh là “Thành phố xanh quốc gia”. Hẳn nhiên về mặt khoa học, tục thờ cây cũng đã góp phần giáo dục ý thức con người biết quý trọng cây cối, họ không dám chặt đốn cây khi không thấy cần thiết vì sợ quở phạt. Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cây là loại hình tín ngưỡng dân gian, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn và thể hiện thái độ ứng xử của con người trước môi trường tự nhiên, hình thành cách ứng xử có văn hóa, đạo đức đối với các loài cây. Chính những hình thức thờ cúng và thực hành nghi lễ trong một số loại hình tín ngưỡng dân gian liên quan đến tục thờ cây đã tạo nên đặc trưng, độc đáo trong văn hóa Huế cũng như phản ánh nếp sống, nhận thức của con người vùng đất Cố đô.
N.H.P
(TCSH440/10-2025)
-----------------------
1 VTV (2022), “Giải mã cuộc sống”: Câu chuyện phía sau tín ngưỡng thờ cây của người Việt Nam, truy cập tại địa chỉ: https://dienbientv.vn/tin-tuc-su-kien/van-hoa/202201/giai-ma-cuoc-song-cau-chuyen-phia-sau-tin-nguong-tho-cay-cua-nguoi-viet-nam-5761846/
2 Léopold Cadière (2021), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Đỗ Trinh Huệ biên dịch và bổ chú, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 447, tr. 479.
3 J. Barrow (2011), Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 - 1793), Người dịch: Nguyễn Thừa Hỷ, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 96.
4 J. Barrow (2011), sđd, tr. 96.
5 Tú Nguyên (2024), Trầm hương: Tinh hoa của tự nhiên từ thân gỗ, truy cập tại địa chỉ: https://www.elledecoration.vn/trends/moodboard/tram-huong-tinh-hoa-tu-nhien-tu-go.
6 Huỳnh Đình Kết (1998), Tục thờ thần ở Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 43.
7 Nguyễn Hữu Phúc (2024), Tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ trong dòng chảy văn hóa Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 275.