Ai ra xứ Huế
Nam Phù - làng bên sông
08:57 | 29/12/2025

PHẠM HOÀI NHÂN

Nam Phù (南符) là một trong những ngôi làng được hình thành khá sớm trên địa bàn huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, dân cư quần tụ từ lâu đời lấy nghề nông làm căn bản, cùng nhiều bản sắc văn hóa lâu đời; tiếc thay do thiên tai, chiến tranh, nhiều tư liệu quý giá về làng đã thất lạc cho nên thế hệ sau thật khó khăn khi nghĩ về tiền nhân khai khẩn lập làng.

Nam Phù - làng bên sông
Toàn cảnh làng Nam Phù ngày nay - Ảnh: tư liệu SH

Đến nay chưa có bằng chứng cụ thể về thời gian thành lập làng Nam Phù, theo các cụ cao niên trong làng cho biết làng do các ngài thủy tổ họ Trần là ngài Dĩnh Xuyên quận Trần Văn Cao đại lang và ngài thủy tổ họ Lương từ vùng Thanh Nghệ đến khai khẩn lập làng (Lương Trần nhị tộc). Sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An nhuận sắc năm 1555 đã nhắc đến địa danh Nam Phù là một trong 52 làng thuộc huyện Đan Điền, phủ Triệu Phong, Thuận Hóa Thừa tuyên, như vậy có thể khẳng định làng Nam Phù được hình thành vào khoảng thể kỷ XIV - XV thời Lê Trung hưng, cùng thời điểm định cư trên mảnh đất này với các làng xung quanh như Xuân Tùy, Nghĩa Lộ, Nho Lâm... Tên làng Nam Phù (南符) được đặt phải chăng là dụng ý của người xưa nhắn gửi về cố hương khẳng định rằng họ đã chọn được vùng đất tốt lành để sinh sống, sản xuất và tin tưởng vào một tương lai trên con đường Nam tiến của mình1. Quá trình phát triển, sinh sôi nảy nở, họ Trần con cháu đông đúc nên chia làm 2 họ Trần Văn và Trần Hữu,  ngoài ra còn có các họ khác như Trương, Nguyễn... cùng đến sinh sống. Nam Phù ngày nay có 5 tổ dân cư với 140 hộ.

Đến thời chúa Nguyễn, Nam Phù là một trong 09 làng, 01 thôn thuộc tổng Đông Lâm, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên gồm Đông Lâm, Cổ Lão, Hương Cần, Sài Lâm (Nho Lâm), Nam Phù, Nghĩa Lộ, Dương Sơn, Cổ Bi, Long Đài, Trung Hòa2; với tứ cận “Đông giáp xã Niêm Phù (tổng Phước Yên), xã Thiên Tùy (tổng Hạ Lang), xã Nho Lâm, xã Cao Xá Hạ (tổng Hoa Lang), có cột đá làm giới3. Tây giáp xã Nho Lâm, lại giáp xã Bác Vọng Đông, Tây nhị giáp (tổng Phú Ốc), thôn Đông lâm Thượng (tổng Hoa Lang), có cột đá làm giới. Nam giáp xã Nho Lâm, có cột đá làm giới. Bắc giáp xã Nghĩa Lộ, xã Niêm Phù, có cột đá làm giới”4. Đến cuối thế kỷ XIX, Đồng Khánh dư địa chí ghi nhận làng Nam Phù thuộc tổng Phước Yên, huyện Quảng Điền, phủ Thừa Thiên5 và ổn định cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng đã bỏ cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã, làng Nam Phù thuộc xã Quảng Hòa. Phía chính quyền Pháp và Quốc gia Việt Nam vào năm 1947 đã tiến hành phân chia địa giới hành chính với các tổng, làng như trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Phù quay trở lại thuộc tổng Phước Yên. Ngày 19/9/1951, Thủ hiến Trung Việt ra Nghị định số 1393-NĐ-PC thành lập 15 Khu vực hành chính tại tỉnh Thừa Thiên, huyện Quảng Điền chia làm 2 Khu vực hành chính là Sịa và Hạ Lang, Nam Phù thuộc về Khu vực hành chính Hạ Lang, đến năm 1953 thì bãi bỏ cơ cấu hành chính này. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên, ngày 20/4/1956, Thủ hiến Trung Việt ra Nghị định số 711-NĐ/PC, quy định thành lập các xã thuộc quận Quảng Điền gồm: Quảng Phú, Quảng Thọ, Quảng Lộc, Quảng Phước, Quảng Ngạn, Quảng Vinh, Quảng Lợi; Nam Phù là một trong các thôn thuộc xã Quảng Phú (Phú Lễ, Hà Cảng, Hạ Lang, Bao La, vạn Hạ Lang, Bác Vọng Đông, Bác Vọng Tây, Đức Nhuận, Xuân Tùy, Nghĩa Lộ, Nam Phù, Nho Lâm), về phía chính quyền cách mạng, Nam Phù vẫn thuộc xã Quảng Hòa, hệ thống hành chính này được duy trì trong suốt thời kỳ kháng chiến và đến sau ngày giải phóng thành phố Huế, tháng 3/1975. Từ 1976 đến 1989, Nam Phù là thôn thuộc xã Quảng Phú, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên; từ 1990 đến 2022, thôn Nam Phù thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; từ 2022 đến nay, thôn Nam Phù sáp nhập với thôn Nho Lâm để trở thành thôn Nam Phù - Nho Lâm thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tuy hai làng chung lại một thôn nhưng luôn đoàn kết, gắn bó với nhau từ xưa đến nay và từ ngày 01/7/2025, Nam Phù - Nho Lâm là thôn thuộc xã Đan Điền, thành phố Huế6.

Làng Nam Phù trên bản đồ do Nha Địa dư quốc gia Việt Nam (cũ) phát hành tháng 3/1970


Dòng sông Bồ cung cấp nguồn nước tưới tiêu, lượng phù sa dồi dào bồi đắp cho vườn tược, ruộng nương Nam Phù xanh tốt, ngày trước người Nam Phù ngược dòng sông Bồ lên phía thượng nguồn mua tre, mây, giống khoai sắn... Sông Bồ còn là nguồn cung cấp cát sạn để xây dựng nhà cửa, tôm cá làm thực phẩm, là nguồn nước sinh hoạt chủ yếu của dân cư. Bên cạnh đó, sông Nam Phù - một chi lưu của sông Bồ, đây là hệ thống thủy lợi vừa tự nhiên vừa do con người tạo nên với nhiều nhánh sông khác nhau, bắt nguồn từ những mạch nước ngầm chảy từ vùng rú cát Thanh Cần - Nam Dương (xã Quảng Vinh (cũ) chảy về cùng với 02 nhánh sông đào khác đổ về hợp lưu tại khu vực giáp giới ba làng Xuân Tùy - Nghĩa Lộ - Nam Phù sau đó xuôi dòng đổ ra sông Bồ, đoạn qua làng Nam Phù sông khá rộng, uốn lượn theo tuyến đê Nghĩa Lộ - Nho Lâm, chia đôi làng Nam Phù, phải chăng vì thế Dương Văn An đã viết rằng “Nam Phù nhà ở bên khe, nhìn cỏ bên khe nhuốm biếc”7. Khi chúa Nguyễn quyết định xây dựng Phủ Bác Vọng thì dòng sông Nam Phù trở thành con đường vận chuyển vật liệu từ khắp nơi về đây, thuyền bè xuôi ngược, quan binh, thợ thầy rộn rã. Với truyền thống gắn liền với sông nước cho nên người Nam Phù giỏi bơi lội, từ xa xưa, trai đinh làng Nam Phù đã được tuyển chọn vào thủy quân của chúa Nguyễn: “Ngày Ất Mão, đầy trời sắc vàng, mặt trời không có ánh sáng. Thao diễn thủy quân: Sai thuyền hải đạo của các cơ đội... Nội Thủy thập nhị đội thì thuyền Bác Vọng nhị, thuyền Thạch Than, thuyền Nam Phù... theo thứ tự bày hàng từ Phủ Cam trở xuống, hễ nghe hiệu trống thì mở thuyền chèo nhanh, đến mé sông Nội Thủy thì quay về. Chúa tới xem, thưởng bạc tiền theo cấp bực”8.

Địa bạ thời Gia Long thống kê làng Nam Phù có 135 mẫu, 4 sào, 6 thước, 4 tấc trong đó: công điền 100 mẫu, 9 sào, 5 thước; công điền cho nơi khác 3 mẫu, 3 sào, 8 thước, 9 tấc; công thổ 21 mẫu, 4 sào, 14 thước, 8 tấc; quan thổ Tam bảo 3 sào; mộ địa (tô thuế theo ruộng) 3 mẫu, 6 thước, 9 tấc; gia viên 3 mẫu, 8 sào, 10 thước, 9 tấc; hoang nhàn, thổ phụ 2 mẫu, 4 sào, 4 thước, 9 tấc9. Hiện nay, tổng diện tích đất canh tác của nhân dân Nam Phù khoảng 70 mẫu với các xứ đồng Cát Đạt, Ruộng Sâu, Hố Điền, Xứ Hạ, Ruộng Vuông, Ruộng Bơi, Ruộng Mua, Rột, Bàu Ba Trên, Bàu Ba Dưới, Lường Khu Ếch, Phò Nam, Bà Đăng; đất khô có Biền Bà Châu, Hậu Đình, Tiền Đình, Hậu Chùa, Cát; đất nghĩa địa có các xứ cồn Đông Phù, Tây Phù (xứ cồn Mãi Thuận). Nhân dân Nam Phù chủ yếu làm nông nghiệp bên cạnh đó còn phát triển nghề nuôi cá lồng trên sông Bồ, làm nón lá, phụ nữ Nam Phù khéo tay, chằm nón có tiếng bền đẹp, góp phần tạo ra thu nhập cho gia đình khi nông nhàn, có thể nói cô gái Nam Phù đi lấy chồng là mang theo cả khuôn làm nón.   

Cũng như nhiều làng quê khác, làng Nam Phù cũng có các thiết chế văn hóa truyền thống của dân cư Việt như đình, chùa, miếu mạo. Đình làng Nam Phù tạo dựng từ lâu, trải qua chiến tranh bom đạn, lũ lụt chỉ hư hỏng nhẹ, sau nhiều lần tu sửa đến nay đình làng Nam Phù vẫn giữ lối kiến trúc 3 gian 2 chái, hậu chẩm có các cửa vòm khiêm nhường dưới bóng cây vung đồng cổ thụ, trước mặt là cánh đồng bao la bát ngát, bên cạnh là dòng sông Nam Phù uốn lượn. Không được may mắn như đình làng, chùa Nam Phù bị bom đánh sập từ lâu, nay chỉ còn nền móng của ngôi cổ tự và tháp chuông Long Vương Hộ Pháp, trong ký ức của nhiều vị cao niên đây là một ngôi chùa bề thế tọa lạc trên khuôn viên với diện tích hơn 4 sào đất phía sau đình làng, nơi tiếng chuông chùa vang vọng cả vùng, những năm 1956 - 1958, khi những ngôi chùa làng khác bị hư hỏng, Phật tử các làng Xuân Tùy, Nghĩa Lộ, Nho Lâm, Cao Xá Hạ đều đến chùa Nam Phù để làm Phật sự. Hiện nay do chùa làng không còn, đa số Phật tử làng Nam Phù đều làm lễ Phật tại nhà, nguyện vọng của họ là được các cấp chính quyền quan tâm, nhân dân trong làng đồng lòng để khôi phục, tôn tạo chùa làng như xưa. Bên cạnh đó, làng Nam Phù còn gìn giữ và tôn tạo khang trang miếu thờ các ngài khai canh, miếu Thành Hoàng, miếu Bà Châu (thờ người phụ nữ có công khai khẩn xứ đồng Bà Châu), cô đàn10... Những việc ma chay, hiếu hỉ, tế lễ, giỗ chạp, nhân dân Nam Phù theo tục lệ ngày xưa nhưng có phần rút gọn và bãi bỏ những hủ tục, mê tín dị đoan theo lối sống văn minh mới, với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tháng chạp hằng năm làng tổ chức chạp làng để con cháu các dòng tộc về sửa sang phần mộ tổ tiên, ông bà đây cũng là lúc các ngôi mộ vô tự được dân làng bồi đắp, tháng 3 âm lịch làng tổ chức giỗ kỵ các ngài khai canh; xuân thu nhị kỳ theo lệ tế làng (xuân tế ngày mồng 6 hoặc mồng 8 tháng giêng âm lịch, thu tế vào dịp rằm tháng 7 âm lịch).

Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ, Nam Phù là nơi hứng chịu bom đạn của kẻ thù, nhiều lần bị càn quét, chà xát, ném bom hủy diệt; tại xã Quảng Phú, Mỹ - ngụy lấy các thôn Nghĩa Lộ, Nam Phù để làm điểm xây dựng hệ thống ấp chiến lược rồi nhân ra toàn xã. 16 giờ 30 phút, ngày 11/6/1966, nhân dân làng Nam Phù đã cùng nhân dân các làng Đông Lâm, Nho Lâm, Nghĩa Lộ, Xuân Tùy, Đông Xuyên, Mỹ Xã (Quảng Đại), Niêm Phò, Phò Nam, Phước Yên, Tân Xuân Lai (Quảng Ninh) nổi dậy giành chính quyền làm chủ, lập chính quyền tự quản của nhân dân, tạo nên vùng giải phóng Ninh - Hòa - Đại, làm địa bàn đóng quân cho các cơ quan kháng chiến huyện Quảng Điền. Nam Phù trở thành nơi giành giật giữa ta và địch, ngày 10/8/1966, địch huy động lực lượng lớn từ Sịa đánh vào, từ Hương Cần, An Thành đánh lên hòng tái chiếm các xã mới giải phóng, trận chiến đấu diễn ra ác liệt tại các thôn Nam Phù, Nho Lâm, Phò Nam làng, Phò Nam phe, bộ đội và du kích xã Quảng Ninh và xã Quảng Hòa đã đẩy lùi cuộc càn quét, loại khỏi vòng chiến đấu trên 50 tên địch11. Từ cuối tháng 2/1967 đến tháng 4/1967, nhân dân và du kích làng Nam Phù phối hợp quân giải phóng lợi dụng địa hình tuyến đê Nghĩa Lộ - Nho Lâm và hệ thống giao thông hào để đánh địch, bẻ gãy 02 đợt càn liên tiếp cấp tiểu đoàn của địch vào Nam Phù, Nho Lâm giữ vững căn cứ “vùng lõm”, có ý nghĩa quan trọng chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Cuối tháng 2/1968, địch đã tiến hành phản kích ra vùng nông thôn Quảng Điền, càn quét, cày ủi làng mạc, nhà cửa, mồ mả vùng Ninh - Hòa - Đại, cưỡng ép đồng bào Nam Phù về Sịa, lên Văn Xá để thực hiện ý đồ “tát nước bắt cá”, trong tình thế gian khó, nhân dân và du kích Nam Phù tiếp tục bám làng, phối hợp bộ đội, du kích địa phương đánh địch, chống phản kích gây cho địch nhiều thất bại. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, làng Nam Phù có 14 liệt sĩ12.

Trải qua hơn 5 thế kỷ từ khi tiền nhân đặt chân đến khai hoang lập nghiệp, đến nay các thế hệ người dân Nam Phù tiếp nối truyền thống cần cù trong lao động, anh dũng trong chiến đấu, xây dựng quê hương Nam Phù ngày càng giàu đẹp, văn minh.

P.H.N
(TCSH442/12-2025)

-------------------
1 Theo Từ điển Hán Việt (https://hvdic.thivien.net/hv/) chữ Phù (符) với nghĩa là vật làm tin (phù hiệu, thẻ bài) do đó chúng tôi tạm lý giải tên làng Nam Phù là vùng đất được tin tưởng lựa chọn ở phương Nam.
2 Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb. Văn hóa - thông tin, tr.100.
3 Hiện nay tại làng Xuân Tùy (tức Thiên Tùy) còn lưu giữ cột đá mốc giới 3 làng Thiên Tùy - Nam Phù - Cao Xá Hạ, lập năm Giáp Tý (1804) - tư liệu điền dã của tác giả.
4 Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Thừa Thiên, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.277.
5 Tổng Phước Yên gồm 12 làng: Phước Yên, Lương Cổ, La Vân Thượng, La Vân Hạ, Phò Nam, Nho Lâm, Niêm Phù, Mông Dưỡng, Nam Phù, Đông Lâm, Sơn Tùng, Nghĩa Lộ.
6 Theo Nghị quyết số 1675/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của thành phố Huế năm 2025, sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các xã Quảng Thái, Quảng Lợi, Quảng Vinh và Quảng Phú thành xã mới có tên gọi là xã Đan Điền.
7 Dương Văn An (2002), Ô Châu cận lục, bản dịch Trần Đại Vinh, Nxb. Thuận Hóa, tr.86.
8 Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, tr.132.
9 Nguyễn Đình Đầu (1997), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, tỉnh Thừa Thiên, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.277.
10 Ngoài ra còn có Miếu Ghe ở khu vực đê Nghĩa Lộ - Nam Phù nhưng đã bị đập phá, hiện chưa xây dựng lại được.
11 Đảng ủy, Ban Chỉ huy quân sự huyện Quảng Điền (2014), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân huyện Quảng Điền (1945 - 2010), Nxb. Chính trị quốc gia, tr.165.
12 Đảng bộ xã Quảng Phú (2018), Lịch sử Đảng bộ xã Quảng Phú (1930 - 2015), Nxb. Đại học Huế, tr.200 - 216.

 

Các bài đã đăng