Ca dao- Cổ tích
Chỉ một từ mèo
15:39 | 04/09/2012

TRỊNH SÂM

Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

Chỉ một từ mèo
Minh họa: BỬU CHỈ

Đầu năm Mão, gạt bỏ những tục lệ kiêng cử không đúng về mèo như: Mèo tới nhà thì khó, chó tới nhà thì sang, lấy con mắt ngôn ngữ học, tìm hiểu chữ nghĩa chung quanh con mèo cũng là điều thú vị. Bởi vì, ngôn ngữ không chỉ sản phẩm của hôm nay, mà còn của quá khứ xa xưa và thường đằng sau cách tri giác, nhận thức, đánh giá về còn vật này, ta còn bắt gặp cách ứng xử tinh tế của người xưa.

Nhưng, trước hết Mão không phải là mèo, Mão là th.

Các sách xưa đều ghi nhận như vậy. Theo từ nguyên, Mão chỉ con thỏ, chẳng hạn mão canhthịt thỏ. Còn theo sách Nhị Thập Tiên trong Lịch Thư, năm mão được tượng trưng bằng con thỏ (thố). Luân Hành Vật Thê, một loại sách lý số Trung Hoa, cũng thừa nhận, con thỏ tương ứng với năm Mão. Các nhà nho, khi đề cập đến năm Mão, đều dùng con thỏ làm con vật tượng trưng. Cụ Đồ Chiểu, trong Lục Vân Tiên, đoạn Tôn Sư bàn về vận số của Vân Tiên, có viết:

Hiểm vì ngựa chạy đường xa
Thỏ vừa ló bóng, đà gáy tan
Bao giờ cho tới bắc phang
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.

Rõ ràng, ở đây tương ứng với các con vật trong 12 con giáp: Ngựa, Thỏ, Gà, Chuột là các năm Ngọ, Mão, Dậu, Tý. Sở Cuồng khi vịnh khoa thi Ất Mão (1915) cũng có câu: "Cử nhân khoa thỏ, Trịnh Đình Rư...". Tưởng cũng nên biết, trong hầu hết các dân tộc ở Đông Nam Á đều có chung cách hiểu như vậy, chẳng hạn, người Kampuchia vẫn tính tết năm nay là tết con thỏ.

Riêng ở Việt Nam ta, năm mão - năm con thỏ, vẫn là chuyện sách vở, chuyện ở đâu bên Trung Quốc, còn năm mão - năm con mèo mới chính quan niệm phổ biến, ai ai cũng đều công nhận như thế, đã trở thành một thói quen từ rất lâu, không cần bàn cãi. Chính điều này biểu hiện cách suy nghĩ độc lập, thể hiện bản lĩnh dân tộc trong việc tiếp thu văn hóa nước ngoài. Cụ thể, không lệ thuộc vào sách vở phương Bắc và có cách vận dụng riêng. Có lẽ, do chữ Hán - Mão đọc trạch ra mẹo, rồi Mẹo biến thành mèo chăng? Dù sao mèo tượng trưng cho năm Mão, đã trở thành dấu ấn sâu đậm từ rất lâu trong truyền thống văn hóa dân tộc.

Cũng như một số con vật khác, mèo có những tên gọi khác nhau như miêu, meo, miu, mãn, có khi mỉu (không biết mèo nào cắn mỉu nào) hay còn gọi là chồn nhà (gia ly). Căn cứ vào sắc lông, ta có các loại mèo: mèo mun, mèo mướp, mèo tam thể, mèo trắng, mèo xám... Dựa vào một số căn cứ khác như đặc điểm hình dáng, chỗ ở, tính tình... người ta chia ra: Mèo nhà, mèo rừng, mèo đực, mèo cái, mèo mẹ, mèo con, mèo già, mèo lành, mèo hoang, mèo cụp tai, mèo cụp đuôi, mèo tinh, mèo mù... Tất cả đều kèm theo một sắc thái nghĩa riêng. Bằng những cách định danh khác nhau, thông qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ, dân gian đã phân loại khá lý thú từng loại "đẳng cấp" nhà họ mèo.

Hãy bắt đầu từ loại mèo hoang. Mèo hoang, tức loại mèo lang bạt, không có chủ. Cũng như mèo mả gà đồng, "mèo" đã "hoang", là mèo không ra gì. Hãy nghe Hoạn Thư xỉa xói Kiều:

- Con này chẳng phải thiện nhân
Chẳng phường trốn chúa cũng quân lộn chồng
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.

Hoặc:

- Giống nhà bà đây, giống phượng, giống công
Còn tuồng bay, mèo mả gà đồng lẳng lơ
                        (Lời Sùng bà mắng Thị Kính)

Với ý nghĩa như trên, mèo hoang thường xuất hiện trong lời nói "ám chỉ". Còn một khi thông báo có tính chất nhân danh, lại khác:

Mèo hoang lại gặp chó hoang
Anh đi ăn trộm, gặp nàng bới khoai.

Ở đây nói thế thôi, chứ mèo hoang, chó hoang thế nào được! Cái chính ở chỗ cùng cảnh ngộ nghèo khó như nhau. Cho nên đã chắc gì "ăn trộm", "bới khoai". Thật ra cũng một cách nói phúng dụ, làm tăng cường tính chất bần hàn của nhân dân lao động dưới chế độ phong kiến áp bức. Mèo cụt tai, cũng nằm trong cách đánh giá không mấy tốt. Bởi vì:

- Mèo lành ai nỡ cắt tai
Gái kia chồng bỏ khoe tài chi em.

Và cũng với cách suy diễn như vậy:

- Mèo lành chẳng ở mả
Ả lành chẳng ở hàng cơm.

Hóa ra chỗ ở cũng qui định tính cách người ở. Mèo cụt tai hoặc cụt đuôi còn nghĩa khác: chỉ sự thất vọng, buồn rầu: tiu ngỉu như mèo cụt tai, rõ có khác! Nếu như mèo hoang, mèo mả, mèo cụt tai được lưu ý ở tính chất không đàng hoàng thì mèo già được khai thác ở khía cạnh khác. Mèo già, là mèo từng trải đến độ khôn ngoan, khôn ngoan đến mức trở thành gian lận, không ai chịu nổi: Mèo già hóa cáo. Còn mèo già khóc chuột, chẳng qua chỉ là lời phê phán sự giả nhân, giả nghĩa, chứ làm gì có thực. Hoặc để chỉ tình trạng tuổi già xế bóng, nhìn đời mà bất lực, lại có câu: Mèo già thua chuột nhắt.

Ngoài những cách gọi trên đây, ở Nam Bộ, (mèo hoặc có mèo) còn để chỉ bồ bịch, mèo mỡ, vợ thứ, vợ bé:

- Khổ qua xanh, khổ qua đắng
Khổ qua mắc nắng, khổ qua đèo
Anh muốn thương em, anh mần giấy giao kèo
Ngày mai mới chắc, em là con mèo của anh

***

Mèo thuộc bộ ăn thịt sống. Nuôi mèo chủ yếu để bắt chuột. Mèo thường săn mồi về ban đêm, còn ban ngày khoanh tròn ở chỗ vắng, ngáp vắn, ngáp dài. Lừ đừ như mèo ngái ngủ, chỉ ai hay nằm vật, nằm vựa. Nói chung, mèo chỉ quanh quẩn trong nhà, do vậy để đùa cợt người nam nhi bất tài hoặc chỉ ru rú trong nhà, ca dao thường đem ví người ấy với công việc đuổi mèo, sờ đuôi:

- Chồng người vác giáo săn heo
Chồng em cầm đũa đuổi mèo quanh mâm

hay:

- Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.

Thật là cách ví von dí dỏm và mang ý nghĩa phê phán sâu sắc.

Lông mèo mịn và mềm mại. Có lẽ người ta thích âu yếm, ve vuốt nó do ở đặc điểm này. Ngày xưa, khi cây bút sắt chưa ra đời, thời bút lông còn ngự trị, lông mèo dùng để làm cọ phếch mực tàu, viết chữ ta, nên lông mèo có thể bán mua:

Trăm tuổi hồn dầu về chín suối
Nhắm (nhúm) lông để lại giúp trò nghèo
                        (Phan Văn Trị, Con mèo)

Mèo có hai con mắt vừa tròn, vừa xanh. Từ đây, sản sinh nên thành ngữ: xanh như mắt mèo. Mắt xanh như mắt mèo tức là xanh quá mức bình thường, hàm cái nghĩa chê bai. Nó khác với mắt xanh lịch thiệp, đẹp đẽ:

"Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?
                                    (Kiều)

Có khi mắt xanh cũng mang ý nghĩa kệch cỡm: "Mắt ông xanh, mũi ông lõ, râu ông quăn, tóc ông đỏ, đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt gió..." Đó là những câu thơ của Yên Đổ, mô tả bọn thực dân cướp nước.

Đuôi mèo có dài hơn đuôi thỏ, đuôi lợn thật, nhưng làm sao có thể so sánh với đuôi chồn. Ai đó hay khoe khoang, tự phụ, dân gian có ngay câu: mèo khoe mèo dài đuôi. Và không hiểu sao, phần lớn mèo già, đuôi hay bị quẹo hoặc gấp khúc nên mới có cách tỉ dụ: Quẹo ngửng như đuôi mèo già.

Tiếng kêu của mèo không mấy thanh tao. Bạn đã nghe, giữa đêm hôm khuya khoắt nhất là trong những mùa "mèo động tình", tiếng mèo ngao chưa? Như tiếng trẻ con khóc phải không nào? Do vậy, nghe ai hát mà người khác vội buột miệng: "Quái, mèo ở đâu gào ỏm tỏi thế!" thì đúng là hát không hay. Bạn nhớ để ý, khi có người khen, hát như mèo kêu, hay hát như mèo ngao, hoặc ác hơn: hát như mèo cái gào đực, đừng vội mừng nhé.

Kể ra mèo là con vật ăn ở sạch sẽ. Mèo thích nằm những chỗ ấm áp nên bếp tro vẫn là nơi mèo ưa thích, về sinh hoạt, mèo tuy ban ngày cù rù nhưng mọi chuyện đều tươm tất, từ sưởi nắng, rửa mặt đến cả chuyện tiểu tiện. Khi "đi ngoài", bao giờ mèo cũng đào lỗ, lấp đất cẩn thận. Từ đây, hễ phê phán ai hay bưng bít, "một mình, mình biết, một mình mình hay", dân gian hay nói: Dấu như mèo dấu cứt. Mèo ăn uống chậm và ít. Ăn như mèo mà lại. Bước đi nhẹ nhàng, yểu điệu cộng với tính "ăn liếm loát", nên mèo thường được sắp vào phái yếu: "Nam thực như hổ, nữ thực như miêu". Uống cũng vậy, mèo uống không đáng kể, bởi vậy: Giàu về thể, khó về thể, mãn uống nước bể có bao giờ cạn. Mèo tuy ăn ít nhưng thường khó tính. Bữa ăn phải có dưa muối, mặn mòi, nếu lạt mèo bỏ không thèm ngửi tới. Có ăn lạt, mới biết thương thân mèo. Nghĩa là có cùng cảnh ngộ mới dễ thông cảm cho nhau.

Về thức ăn, ngoài món thịt sống, mèo rất khoái mỡ. Như mèo thấy mỡ, ấy là vồ vập một cách quá đáng, hoặc vì quá ham muốn mà sấn tới, quên cả đầu đuôi. Vốn đã thích mỡ như vậy, nên mỡ để miệng mèo là dại, bởi sờ sờ trước mặt, làm sao khỏi ăn vụng được. Có nhiều thành ngữ đúc kết bản chất xấu ăn của mèo: Mèo nào chẳng ăn vụng mỡ, hoặc mèo nào chê thịt mỡ. Cá là món ăn thứ hai, mèo thích. Mà cá thì đối với mèo kể cũng khó kiếm. Mèo vớ được cá đã may mắn lắm rồi, còn mèo mù vớ được cá lại càng hi hữu, ít thấy. Nhưng đến trường hợp mèo mù vớ cá rán, quả hết chỗ nói; chỉ có thể so với chuyện trúng số độc đắc.

Leo trèo, một món "võ gia truyền" của dòng giống mèo. Từ xa, mèo có thể phóng tuốt lên cây dễ như bỡn. Để phê phán tính hay dạy khôn, dân gian mượn hình ảnh leo trèo của mèo để ngụ ý: Con mèo, con mẻo, con meo, ai dạy mày trèo, mày dạy tao leo? Theo đó, thì leo trèo là thuộc tính bẩm sinh của mèo. Chính nhờ hai món nhà nghề này, bao lần mèo tránh "đụng mặt" với chó, và lục lọi bất cứ nơi đâu để săn mồi, thậm chí còn tránh được tai họa. Chuyện dân gian kể rằng, mèo dạy hổ học võ. Mèo dạy tất cả các món nghề cho hổ, ngoại trừ món leo trèo, mèo chỉ giữ riêng cho mình, phòng hổ trở mặt. Quả nhiên, hổ phản. Nhờ bí quyết leo trèo, mèo thoát chết. Một món võ khác cũng không kém phần quan trọng đối với mèo, ấy là quào (chó cắn, mèo quào, ngựa đá, bò húc...). Nhưng quả chỉ để hù dọa trẻ em thôi, chứ chẳng chết ai: Mèo quào không xẻ được vách tôi. Mèo cũng nhảy rất giỏi, đúng hơn, đây cũng là sở trường của mèo. Phan Văn Trị, đã khai thác tính chất lẹ làng này để chỉ việc mau thăng quan tiến chức của bọn vua quan bán nước:

Mấy tầng đài các sãi chơn leo
Nhảy lẹ chi cho bằng giống mèo
                        (Phan Văn Trị, b.đ.d)

Đối với chó, việc cất giữ đồ ăn tương đối đơn giản, chỉ treo lên là xong. Còn mèo vốn đã lẹ làng, lại leo, trèo, nhảy giỏi cho nên cần phải kỹ lưỡng. Người ta đã rút được kinh nghiệm: chó treo, mèo đậy. Điều đó cũng mách bảo rằng trong ứng xử phải tùy đối tượng cụ thể để có biện pháp thích hợp.

***

Đặt mèo trong quan hệ với các con vật khác như mèo với chuột, mèo với chó, mèo với cọp, các tác giả dân gian thông qua những biểu hiện có thật, nhằm khai thác tính chất hàm nghĩa để lồng cái nghĩa bóng vào.

Ta bắt đầu bằng cặp từ mèo chuột và những thành ngữ khai thác tính chất biểu trưng từ hai con vật này. Tuy cùng sống trong nhà nhưng vai trò của mèo và chuột hoàn toàn đối lập nhau. Mèo bao giờ cũng ở trong cái thế chủ động, kẻ luôn gây tai họa cho chuột. Nhưng không phải lúc nào chuột cũng sờ sờ trước mặt mèo, muốn có "chút tươi" mèo thường phải thức khuya, dậy sớm, nghĩa là muốn có ăn, mèo cũng phải lao động:

Con mèo, con mẻo, con meo
Muốn ăn thịt chuột, phải leo trần nhà.

Bình thường, hễ nghe tiếng "meo meo" chuột đã quýnh quáng, chạy vắt giò lên cổ, vì vậy, mèo phải rình rập, tìm cơ hội để ra tay. Rình như mèo rình chuột, trước hết mô tả tính cần cù, chịu khó của mèo nhưng nó còn chứa cái nghĩa này nữa: phê phán tính xoi mói, tìm cơ hội để hại người. Khi đã vồ được chuột, mèo có cái tật hay vờn mồi, vờn như một cái thú ở mèo trước khi ăn. Cho nên trong một cuộc thi thố tài năng, có người bình phẩm vờn như mèo vờn chuột thì rõ ràng có sự chênh lệch về tài năng và trình độ. Còn như mèo tha con chuột - lại chê trách cách ẳm bế vụng về của đứa nhỏ đối với em, hoặc khiêng vác vật gì cẩu thả không đúng qui cách. Và phàm làm việc gì cũng phải tính đến sức mình, thành ngữ dạy: mèo nhỏ bắt chuột con chứ đừng nên mèo con bắt chuột cống hay mèo con bắt chuột lớn. Nguyễn Thượng Hiền trong bài phú cải lương, cũng lấy ý này làm phương sách hành động: "Bao giờ to lớn hãy hay, mèo nhỏ bắt chuột to, sức ấy xem ra đừng có gượng".

Mèo chuột tưởng chỉ có khai thác trên quan hệ một chiều, tức mèo luôn ăn thịt chuột chứ không thể ngược lại. Trong các bài "vè nói ngược" có khi chuột lại nhảy lên vị trí chủ nhân ông và để chỉ cái ý cá biệt, hi hữu, dân gian cũng hay khai thác quan hệ ngược chiều, trái đời này. Chẳng hạn chuột gặm chân mình, một chuyện bình thường: "Đi cùng bốn bể chín chu, trở về xó bếp chuột chù gặm chân". Nhưng chuột gặm chân mèo lại chuyện lạ, cũng như chuột cắn dây buộc mèo quả là hiếm thấy. Phải chăng, ngoài ý vừa nói, thành ngữ còn khuyên ta thương người phải đúng lúc, đúng chỗ? Và có lẽ, tính chất ngạo ngược, dí dỏm vừa mang tính đấu tranh vừa mang tính trào lộng, tập trung nhất, trong bài ca dao sau đây:

Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đàng xa
Mua mắm, mua muối, giỗ cha chú mèo.

Có lạ không, mèo đi hỏi thăm sức khỏe chuột! Phải chăng mèo ngon ngọt để che đậy âm mưu đen tối của mình? Còn chuột lo mắm muối để giỗ cha mèo, càng đáng ngạc nhiên. Chữ nghĩa quả đúng là lời qui phục của kẻ yếu thế nhưng nào phải! Đúng là tiếng chửi thẳng vào mặt mèo ấy chứ. Thú vị biết bao.

Nếu như ở trên, trong quan hệ mèo - chuột, chủ yếu được xây dựng trên cái nền của kẻ yếu, người mạnh, ngược lại mèo - chó lại lấy cơ sở từ chuyện đối đầu của một anh 49, một anh 50, của một đằng tám lạng, một đằng nửa cân. Nói khác, chó mèo vốn không ưa nhau.

Dân gian không bỏ sót tính chất "hục hặc", "xung khắc" này. Nào như chó với mèo, hoặc như mèo với chó. Thấy chòm xóm láng giềng cãi vã nhau, người ta nói chó mèo lại cắn nhau. Có biết bao thành ngữ đan chéo từ cặp từ chó mèo để chỉ người không lịch thiệp đánh chó chửi mèo, chửi mèo mắng chó, chửi mèo quèo chó... Vật dụng trong nhà, bỏ bật bựa, không ngăn nắp, người ta lại than: chó tha đi, mèo tha lại. Hoặc để chỉ hạng người "ghen ăn, tức ở", cũng bằng hình ảnh chó mèo, dân gian đã khái quát thành kinh nghiệm sống:

Chó ghét đứa gặm xương
Mèo thương người hay nhử.

Cùng nghĩa với các thành ngữ "quýt làm cam chịu" hoặc "mèo làm chó chịu", ca dao ví von bằng hình ảnh độc đáo sau đây:

Con mèo đập bể nồi rang
Con chó chạy lại phải mang lấy đòn.

Nhìn chung, xét riêng hai yếu tố chó - mèo và cả những câu tục ngữ, thành ngữ được cấu tạo từ tên hai con vật này, thường hàm theo sắc thái nghĩa không tốt. Thậm chí, chúng đã trở thành những phạm trù đối ứng, tạo nên những thành ngữ vừa nhịp nhàng trong cấu trúc, vừa bóng bẩy ở ý nghĩa: mèo hoang, chó lạc, mèo đàng chó điếm, mèo lừa chó lọc... Trên đại thể là như vậy. Nhưng không ít trường hợp liệt kê chó mèo chỉ có giá trị nhận thức, nhất là trong những bài đồng dao: "Con mèo, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai"...

Cuối cùng, mèo - cọp được xây dựng trên một quan hệ khá đặc biệt. Xét về đặc điểm sinh lý, hai con vật này giống nhau về hình dáng, về tài bắt mồi, về sở thích ăn thịt sống. Nhưng chúng đối lập ở hình vóc, một đằng to lớn hung dữ, một đằng nhỏ bé, hiền lành. Vì vậy, trong cách đánh giá cũng bên trọng bên khinh, một bên đại diện cho quyền thế, một đằng tượng trưng cho kẻ thấp cổ bé miệng. Và thói đời, thật oái oăm:

Mèo tha miếng thịt xôn xao
Kễnh (con cọp) tha con lợn thì nào thấy chi

hay:

Mèo tha miếng thịt thì đòi
Kễnh tha con lợn mắt coi lừng khừng

Quả thực, trong cuộc sống nhiều khi ta chỉ thấy, đúng hơn chỉ dám phê phán những khuyết điểm của lính lác, còn ở chỗ khác thì không thấy, hoặc thấy thì cũng lờ đi, "sợ rút giây động rừng". Và bởi thế cho nên: Mèo mất thịt, tiếc hơn Kễnh mất hươu.
***
Câu chuyện chữ nghĩa xung quanh con mèo còn có thể tiếp tục nữa. Song ngày tết mà nói dài quá e không tiện. Bài viết tạm dừng ở đây. Như đã thấy, người xưa đề cập đến mèo đâu phải để nói mèo, trái lại bao giờ cũng nhắm đến một đối tượng khác, quan trọng hơn nhiều: CON NGƯỜI. Do vậy, đầu năm nói chuyện mèo đâu phải chuyện phiếm; âu cũng là cách cùng nhau "ôn cổ tri tân", học cũ biết mới để cùng nhau sống tốt hơn. Và chỉ một từ mèo không thôi, đủ thấy sức sống của tiếng Việt ta mạnh mẽ và phong phú biết chừng nào.

T.S.
(SH23/01-87)






 

Các bài mới
Các bài đã đăng