PHAN THUẬN AN
Không phải tình cờ mà ngôi điện Long An ngày trước đã trở thành Bảo Tàng Huế hiện nay. Nó có một giá trị đặc biệt trong lịch sử kiến trúc cung điện Nhà Nguyễn nói chung và thời vua Thiệu Trị nói riêng.
Do đó, ngay vào những năm đầu của thập kỷ 1920, công trình kiến trúc nghệ thuật này đã lọt vào mắt xanh của Hội Đô Thành Hiếu cổ (Société des Amis du Vieux Hué), một học hội nổi tiếng ở Đông Dương thời bấy giờ, và toà nhà ấy đã được dùng làm Bảo tàng mang tên vị vua đương thời: Musée Khải Định.
Điện Long An nguyên là một tòa nhà nằm trong hệ thống kiến trúc của cung Bảo Định được xây dựng vào năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị (1841-1847), ở bờ bắc sông Ngự Hà trong kinh thành. Bảo Định thuộc loại "biệt cung" dùng cho nhà vua thỉnh thoảng rời khỏi Hoàng Thành ra đây nghỉ ngơi tiêu khiển, hoặc dùng làm nơi trú tất khi nhà vua đến làm lễ “diễn canh” ở khu ruộng tịch điền nằm gần đó.
Cung Bảo Định tọa lạc trên một khu đất hình chữ nhật mặt bằng khoảng 120mx150m, gồm có 13 tòa nhà lớn nhỏ và một số công trình phụ thuộc. Chín trong 13 tòa nhà ấy được gọi tên như sau: Long An Điện, Minh Trưng Các, Đạo Tâm Hiên, Trừng Phương Tạ, Văn Trực Giải, Võ Vệ Nha, Đông Minh Vũ, Tây Thành Sương, Khánh Thiện Đường. Quan trọng hơn hết trong số đó là 3 tòa nhà đầu tiên, nằm chung quanh một cái hồ mang tên Giao Thái Trì.
Sau khi vua Thiệu Trị băng hà (1847), hệ thống cung điện ấy được giữ nguyên để thờ vua. Nhưng, đến thời Thành Thái (1889-1907), vì những lý do khác nhau, các tòa nhà thứ yếu ở cung Bảo Định đã bị triệt giải để đưa đi làm việc khác.
Vào đầu thời Duy Tân (1907-1916), Nam triều quyết định dời trường Quốc Tử Giám từ làng An Ninh về trong kinh thành. Cho nên năm 1908, Minh Trưng Các và Đạo Tâm Hiên trong cung Bảo Định được dời ra dựng lại ở giữa khuôn viên của trường ấy; đặt cho cái tên mới là Di Luân Đường, dùng làm giảng đường chính của trường (nay vẫn còn).
Năm 1909, Điện Long An cũng được dời ra dựng lại ở gần sau lưng Di Luân Đường để làm thư viện cho trường Quốc Tử Giám, và được gọi bằng một cái tên mới là Tân Thơ Viện.
Sau 10 năm hoạt động tích cực (1913-1923), Hội Đô Thành Hiếu cổ đã sưu tập được nhiều hiện vật Chàm và Việt ở vùng đất Ô Lý - Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế mang giá trị cao về lịch sử và văn hóa. Do yêu cầu trưng bày và tàng trữ các hiện vật quý hiếm ấy, Khâm sứ Trung Kỳ Pierre Pasquier và vua Khải Định cùng ban sắc lệnh dùng tòa nhà ấy làm Bảo Tàng và đặt tên là Bảo Tàng Khải Định.
Sách vở của Tân Thơ Viện được chuyển qua dãy nhà phía sau bên trái Di Luân Đường; gọi là Bảo Đại thư viện.
Năm 1947, khi Pháp tái chiếm Huế và tái lập nền đô hộ tại đây, Musée Khải Định được đổi tên thành Tàng Cổ Viện. Mãi đến năm 1958, nó mới được gọi là Bảo Tàng Huế như hiện nay.
Dù thay đổi vị trí và tên gọi nhiều lần như thế, tòa nhà dùng làm Bảo Tàng Huế hiện nay vẫn là ngôi Điện Long An cổ kính và thanh tú của ngày nào.
Đây là một tòa nhà mang cấu thức và phong cách đặc biệt của loại kiến trúc cung điện Huế. Trong bộ luật thời Gia Long, có điều khoản ấn định rằng quy cách xây dựng một tòa nhà như vậy chỉ dành cho các cung điện của triều đình và hoàng gia mà thôi.
Nhờ các cấu kiện gỗ ở Điện Long An đều liên kết với nhau bằng nhiều loại mộng, cho nên, các bộ phận có thể tháo rời ra, mang đến nơi khác để lắp ráp lại một cách thuận tiện, dễ dàng. Khi dời từ Cung Bảo Định đến vị trí hiện nay, Điện Long An đã được dựng lại đúng nguyên mẫu. Nằm giữa một khuôn viên hình chữ nhật (85mx77m), tòa nhà đứng trên một nền cao 1,10 m với mặt bằng nền 35,70mx28m, vỉa ốp đá thanh. Thành bậc thềm là những con rồng đá được chạm trổ cực kỳ khéo léo và sinh động. Diện tích phần mái lợp lên đến 1.750 m2, nằm trên một bộ khung chịu lực vững chãi với 128 cột gỗ. Bộ dàn trò cũng như hệ thống cột đều làm bằng gỗ lim, chỉ chùi bóng bằng một lớp dầu đen sẫm, chứ không sơn son thếp vàng. Người xưa đã dùng gam màu sẫm ấy để làm nổi rõ những hình ảnh và thơ văn trang trí bằng vàng, son, ngà, xương, xà cừ trên kiến trúc.
Điện Long An là một tòa nhà kép, thuộc loại trùng thiềm điệp ốc, còn gọi là trùng lương trùng thiềm, gồm hai bộ mái của nhà trước và nhà sau, nối kết lại với nhau một cách chặt chẽ trên một nền móng duy nhất.
Nhà trước (tiền doanh) chia ra làm 7 gian với 8 bộ vì kèo chồng rường giả thủ; hai bên có 2 chái đơn. Những bộ vì kèo ở đây được chạm trổ thành hình lưỡng long triều nguyệt hoặc hình rồng ngang với những đường nét linh hoạt và tinh tế. Đây là một trong những hệ thống vì kèo nóc đẹp nhất của cung điện Huế. Ngày nay chiêm ngưỡng những bộ vì kèo ấy, chúng ta thấy các nghệ nhân của 150 năm trước đã phối hợp được một cách thông minh và nhuần nhuyễn giữa kết cấu kiến trúc và trang trí mỹ thuật.
Nhà sau (chính doanh) chỉ có 5 gian với 6 bộ vì kèo cánh ác; nhưng hai bên làm hai chái kép để bề rộng của bộ mái có cùng một cỡ với nhà trước. Ở 5 gian nhà này, bên trên đóng trần (gọi là rầm thượng), và dưới mặt nền có đặt bục gỗ (gọi là rầm hạ). Vật liệu có giá trị đặc biệt nhất ở đây là 4 cạnh của bục gỗ này được ốp bằng 4 tấm ván bằng gỗ lim, mỗi tấm ván dài liên tục hơn 20 mét!
Hai không gian của nhà trước và nhà sau nối liền với nhau bằng một không gian thứ ba, tạo nên một hệ thống vì kèo đặc biệt gọi là trần vỏ cua (hoặc trần thừa lưu), nằm giữa hàng cột cuối nhà trước và hàng cột đầu nhà sau.
Bên trên cái trần uốn cong mềm mại và hệ thống vì kèo xinh xắn ở đây là một máng xối bằng đồng khá lớn, hứng nước mưa từ mái sau nhà trước và mái trước nhà sau chảy xuống để dẫn ra hai đầu máng xối, thoát ra ngoài bằng hai đầu rồng há miệng.
Tuy có thể phân biệt rạch ròi về mặt bằng kết cấu kiến trúc như thế, nhưng nhìn chung người ta vẫn thấy tòa nhà có được một không gian nội thất duy nhất từ trái sang phải và từ trước đến sau. Không gian rộng rãi mênh mông ấy có một chiều sâu để tạo ra sự thâm nghiêm cần thiết cho kiến trúc cung điện của vua chúa. Chung quanh tòa nhà, tuyệt đối không xây vách, chỉ dựng toàn cửa bảng khoa lồng kính trong để tiếp nhận ánh sáng tự nhiên từ ngoài vào.
Mặt khác, vì Huế là nơi thường xảy ra gió bão và mưa lụt, cho nên, cũng như các cung điện khác tại đây, Điện Long An phải làm trên một nền cao (1,10 m) để tránh lũ lụt, đồng thời, bộ mái cũng phải làm thấp để tránh gió bão. Các nhà kiến trúc cung điện Huế ngày xưa đã bị ép giữa trời và đất như vậy, cho nên, họ đã tỏ ra rất khôn khéo khi tạo ra những ảo giác về bề cao cho công trình của mình bằng cách: - cắt phần mái bao che chung quanh ra làm ba tầng mà ở giữa là hàng cổ diêm dùng để trang trí ô hộc, - Chuốt nhỏ các cột hiên và cho hàng các cột hiên đứng xuống mặt sân chứ không tựa trên mặt nền, - Trang trí trên bờ nóc hình lưỡng long tranh châu (ở giữa) và hình hồi long (ở hai đầu) trong tư thế như muốn bay bổng vào không gian.
Mái ở đây thẳng, không có tàu đao cong lên như kiến trúc đình chùa miếu vũ miền Bắc. Từ đầu mút bờ nóc đến cuối bờ quyết Điện Long An, người ta đắp nổi hình tứ linh: long, lân, quy, phụng.
Tuy nhiên, giá trị mỹ thuật cao nhất của Điện Long An vẫn là trang trí ô hộc theo lối nhất thi nhất họa. Ngoài các hình ảnh đắp nổi bằng sành sứ trên các hệ thống bờ nóc, bờ quyết, đầu hồi, cổ diêm, và các mô-típ chạm trổ trên các hệ thống vì kèo, con-xơn, hoành trến, những người thợ tài hoa thời Thiệu Trị còn trang trí gần 1.000 ô hộc trên các liên ba đố bản với những hình ảnh khác nhau chen kẽ với hàng trăm bài thơ văn ngự chế. Riêng thơ văn, ở ngoại thất có 71 ô và ở nội thất có 468 hộc. Dạng chữ được trình bày theo 4 loại: chân, thảo, triện, lệ. Có chữ sơn son, có chữ thếp vàng. Phần lớn các hình ảnh và thơ văn trong những ô hộc ấy đều được khảm nổi bằng những chất liệu đắt giá như ngà, xương, xà cừ. Đặc biệt nhất là trên mặt trước của hệ thống đố bản của chính doanh, hai bên có hai pa-nô chữ Hán khảm cẩn. Trên mỗi pa-nô chỉ có 56 chữ, nhưng đã được sắp theo kiểu hình bát quái, và dùng thể hồi văn kiêm liên hoàn, nên đọc thành 64 bài thơ thất ngôn và ngữ ngôn khác nhau. Đây là một lối làm thơ bằng cách chơi chữ rất uyên bác của vua Thiệu Trị.
Cố họa sĩ Phạm Đăng Trí đã từng nhận xét về cách trang trí trên mặt gỗ trong Điện Long An như sau:
"Những lần tôi đến đây thường say sưa ngắm những ô hộc chạm xương hay khảm xà cừ nằm trong những liên ba thành vọng đủ cỡ viền quanh mấy hàng cột trông giống như những nghi môn có lớp cao lớp thấp. Càng ngắm tôi càng nhận thấy phần trang trí trong kiến trúc thời Thiệu Trị là tinh vi hơn cả so với những thời khác tại Huế. Nó vừa lộng lẫy lại vừa thanh nhã, và khéo điểm sáng những chỗ chính, tô mờ những chỗ phụ, trang sức trong những đoạn cần thiết mà thôi".
Cách đây gần nửa thế kỷ, trong một bài viết bằng tiếng Pháp về công trình kiến trúc này, có người đã cho rằng Điện Long An là ngôi điện đẹp nhất ở kinh đô Huế (le plus joli de la Capitale). Và trong một bài viết đăng ở Khảo cổ Tập San xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1960, một tác giả khác lại đưa ra một nhận định đây là "tòa nhà nguy nga tráng lệ vào hạng các cung điện đẹp nhất của Việt Nam".
Hàng ngàn bảo vật mang giá trị cao về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật hiện nay đang trưng bày và tàng trữ trong khu vực ngôi điện quý hiếm này lại là một vấn đề khác nữa.
Dù Điện Long An là một di tích bất động sản, một công trình kiến trúc nghệ thuật, nhưng chính bản thân nó cũng đã được xem như một hiện vật bảo tàng.
P.T.A
(TCSH61/03-1994)