HOÀNG THỤY ANH
Trên nền lục bát quen thuộc, Đỗ Thành Đồng đã thổi vào thi tập Lục bát đời1 tinh thần hiện sinh với giọng điệu trầm lắng, u hoài cùng những suy tưởng giàu tính triết lý.
Cái tôi thi sĩ hiện lên như một “hữu thể bị ném vào cuộc đời”, thường trực trở trăn suy tư về sự hiện hữu, bền bỉ đào xới, đối thoại với bản thân, với đời sống và cả những giới hạn tồn tại. Nỗi cô đơn, lo âu, khắc khoải, nghi hoặc và khát vọng vì thế xen ngấm từng câu thơ, phơi trải những giằng xé dấm dẳng của nội tâm. Từ việc chiêm nghiệm khoảnh khắc tỉnh thức trước nỗi cô độc và sự hữu hạn của cái chết, anh cho người đọc cái nhìn xa sâu hơn về ý nghĩa và giá trị đích thực của sự sống.
Rác, Rỗng, Xác, Đá2 và đến Lục bát đời, cái tôi Đỗ Thành Đồng thường vò võ “độc hành”, khắc khoải tự vấn, không ngừng lật trở chính mình trong nỗi buồn bản thể. Nói anh là người “tụng ca sự cô đơn”, tụng ca sự “đơn chiếc tinh thần” không hề quá lời. Thơ anh buồn nhưng không bi quan hay tuyệt vọng. Trái lại đó là cách anh tự tạo khoảng cách “an toàn” để lắng đọng trong miền thẳm sâu của tâm hồn, để thấy được sự dịu dàng đầy ma mị và sức mạnh ẩn tàng của nỗi cô đơn. Nhờ tách mình khỏi mưu cầu cá nhân, gạt bỏ ảo tưởng về cái tôi, anh đã thể hiện thành công trạng thái hiện sinh: con người ý thức về sự tồn tại và nỗi cô đơn cố hữu. Đây chính là lúc, như anh từng chia sẻ trong thơ mình, “cô đơn nở hoa”.
Triết gia Martin Heidegger cho rằng, con người là một Dasein bị “quẳng” vào đời sống, không ai có thể thay thế cho ai, không ai thực sự thấu hiểu ai. Trong Cảm ơn đêm, anh cũng khơi dậy tinh thần đó, mỗi cá thể là một vũ trụ khép kín, một “đêm riêng” bất khả xâm phạm và xuyên thấu:
đêm không phải để thương đau
mà đêm chỉ để làm giàu cô đơn
(...)
mỗi người một bóng tối riêng
yêu thương ngắn lại nỗi niềm dài ra
Dẫu con người sống trong thế giới chính mình và luôn ở cạnh, gần gụi với người khác nhưng dường như họ chẳng bao giờ có thể quyện hòa và hiểu nhau. Sự đứt gãy kết nối này khiến họ cô đơn trong chính cuộc sống mà họ đã và đang tồn tại. Và cô đơn do đó được xem là phần sâu nhất của bản thể, là chất liệu dưỡng nuôi, chưng cất nguồn cảm hứng cho tư duy thi ca. Trong thơ Đỗ Thành Đồng, nỗi cô đơn hiện diện cụ thể qua những hình ảnh giàu sức gợi như vét lòng sạch đáy mỗi mông mênh buồn; nỗi buồn vẫn cứ nguyên tươi; nhặt từng đốm chữ buồn lây lở buồn… Nhưng không phải dạng cô đơn kể lể hay than vãn. Đây là nỗi buồn đã được anh nghiệm suy, lắng lọc, kết tinh từ quá trình đối gương, soi xét và lắng nghe những quẫy cựa đang phun trào bên trong tâm hồn:
thôi thì nâng chén từ bi
uống cho cạn hết nỗi ly biệt ngày
chuông chùa cũng lắm người say
mình ta ngồi gõ nhịp lay lắt buồn
mặc ai đi hết mưa nguồn
ta về mở quán bán cuồng điên ta
(Cuồng)
Nhà thơ Tagore từng viết: Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy/ Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu! (Bài thơ số 28). Câu thơ xác quyết tình yêu hay mọi mối quan hệ trong đời sống rốt cuối chỉ là những khoảnh khắc tạm thời, chẳng bao giờ khỏa lấp được sự chia cắt giữa các bản ngã, càng không đủ sức làm đầy các khoảng lặng mênh mang trong mỗi người. Trên hành trình kiếm tìm sự giải thoát, con người vẫn bị đẩy/cuốn vào vòng ham muốn vô hình luẩn quẩn. Buông bỏ được coi là lối mở. Nhưng buông bỏ không phải chạy trốn, không phải phủ nhận hiện thực mà là cách can đảm đối diện và sống chân thực hơn, đúng với những gì thuộc về bản chất con người. “Buông” ngỡ nhẹ hều lại đèo bồng nghịch lý trong thơ Đỗ Thành Đồng. Sự lo âu trong thơ anh là tín hiệu của cái tôi đang bị-quăng-vào-hiện-hữu, liên tục đối diện chính mình trong tình thế không còn chỗ bấu víu, không còn điểm tựa. Càng khao khát buông bỏ, con người càng đối diện với nỗi khát khao không thể gọi tên và đối diện với cả tiếng vọng mơ hồ của tha nhân. Vì lẽ khước từ cũng là hành vi lựa chọn, và đã lựa chọn thì không thể vô can, thoái thác. Đó là tình thế hiện sinh mà Heidegger gọi là “hữu thể bị ném vào thế giới”:
đi tìm mãi một chữ buông
mà sao chỉ thấy một cuồng khát say
(…)
bốn bề lặng ngắt trong tôi
mà nghe khúc khích tiếng người ở đâu
(Lặng ngắt)
Con người không có quyền chọn nơi sinh ra nhưng buộc phải sống, phải quyết định và gánh lấy hậu quả như thể chính mình lựa chọn. Chợt nhớ đến ca từ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi của Trịnh Công Sơn. Nó cũng gợi lên trong ta cảm thức thấm thía về sự nhỏ bé, vô thường của kiếp người. Con người không sinh ra từ mục đích định trước, cũng không mang theo bản chất sẵn có nào để dẫn lối định hướng cuộc đời. Con người được trao tự do tuyệt đối nhưng lại canh cánh gánh nặng hiện sinh. Với tình thế đó, con người bị-buộc-phải lựa chọn trong nỗi bàng hoàng lo âu khi đối diện bản thể trần trụi, nhất là đối diện với sự rỗng trống của cuộc sống.
Thơ Đỗ Thành Đồng ngập tràn nỗi lo âu hiện sinh. Cái tôi trong thơ anh không tìm kiếm con đường bằng phẳng hay nguồn sáng siêu hình, ngược lại, nó luôn trong tâm thế sẵn sàng đối mặt với những dằng dặc bất an. Ta bắt gặp sự ray rứt giữa cái tôi khát vọng tự do và cái tôi gánh nặng trách nhiệm, giữa cái tôi mơ ước buông bỏ và cái tôi nhận thức buông bỏ cũng là lựa chọn. Một khi đã lựa chọn ắt không thể nằm ngoài ràng buộc của hiện hữu. Thơ anh không cất lời an ủi. Thơ anh thiết tạo không gian chất vấn: Ta là ai giữa cõi thế này? Và liệu có lối ra nào cho một hữu thể đã-lỡ-là-con-người?... Những giấc mộng buông bỏ, thoát ly mọi ràng buộc, chỉ đưa ta đến sự mỏi mệt vì trong hành động từ chối, con người vẫn đang lựa chọn, vẫn bị giam cầm trong chính vòng quay của sự tồn tại:
thế gian mấy nẻo nhân tình
chữ buông chưa tụng lời kinh thở dài
xin nhờ tạm ánh ban mai
tìm câu thơ gõ một vài hồi chuông
(Buông)
Không gian đêm là thi ảnh trở đi trở lại trong thơ Đỗ Thành Đồng. Anh nhận thấy đêm có sự dung hợp giữa chiều rộng của không gian và dòng chảy của thời gian. Khoảnh khắc ấy, cái tôi ngoài gương soi chiếu vào cái tôi bên trong, buộc ta phải đối mặt không khoan nhượng với những lầm lỗi đã qua, với mong mỏi được thứ tha nhưng cũng nơm nớp lo sợ tới thời điểm nào đó ánh sáng sẽ bày trụi trần tất cả. Trong cái nhìn đan cài giữa thời gian và không gian, nỗi lo âu hiện sinh bộc lộ qua thế lưỡng phân của ý thức: vừa tỉnh táo vừa bấp bênh, vừa khát khao lại vừa hồ nghi. Đó là cảm thức của chủ thể ý thức giới hạn của mình trong cuộc sống đầy bất trắc và khôn cùng biến đổi:
đêm như cái trở bàn tay
mới thăng hoa mộng đã đày đọa tâm
mong ngày nắng tỏa phúc âm
để tôi mang những lỗi lầm ra phơi
(Nỗi đêm)
Chủ nghĩa hiện sinh nhìn thế giới như thực tại phi lý vì nó không đáp ứng được nhu cầu bản thể và bất lực trước khát vọng kiếm tìm ý nghĩa cuộc sống của con người. Trong nỗ lực được thấu cảm và được gắn kết, con người đã tự dựng nên vô số hệ giá trị như tôn giáo, đạo đức, mỹ học,... để khỏa lấp sự trống rỗng. Nhưng tất cả những điểm “vịn” ấy đều mong manh, dễ sụp đổ khi va đập với sự phù du, bấp bênh, bất định của đời sống. Từ vùng đổ vỡ ấy, thơ Đỗ Thành Đồng hiện diện riêng khác. Cái chết trong thơ anh không kết thúc đột ngột, không phải dấu chấm tức thì mà nó là tiến trình rệu rã, chậm rãi, kéo dài, âm ỉ đến tận cùng mệt mỏi. Khi “thơ chết”, cảm xúc cũng rút lui, thoái trào, để lại cõi thế trơ rỗng, kể cả nỗi tiếc thương cũng dần nhạt nhòa, hờ hững và vô nghĩa. Ai điếu vì thế mang giọng điệu sắc lạnh, như bản di chúc tinh thần người viết tự tay khép lại:
sống đeo một chút danh tàn
chết làm cỏ dại mọc tràn mộ thôi
tôi đành viết điếu văn tôi
dại khôn cũng đã rõ rồi mai sau
Cái chết trong thơ Đỗ Thành Đồng được xem là “nốt lặng” để cái tôi định hình chính mình trong thơ, trong ngôn ngữ, trong ý thức về tự do. Ở bài thơ Nhắn biển, sự chuẩn bị cho cái chết được anh thể hiện bằng giọng điệu thanh thản, nhẹ nhõm, như thể cái tôi đã tìm thấy sự hòa giải với vô thường:
tôi nhờ hỏa táng thơ tôi
bao nhiêu sóng gió gửi lời khói hương
chỉ xin mộ chí vô thường
viết nơi yên nghỉ kẻ cuồng dại thơ
Nếu nhiều thơ hiện đại rơi vào trạng thái hoài nghi rỗng tuếch thì thơ Đỗ Thành Đồng vẫn neo lại trong lòng người đọc một cách vững chãi và nhân văn. Một trong những khía cạnh quán chiếu tư tưởng hiện sinh trong thơ anh là hình ảnh cái tôi chủ động kiến tạo ý nghĩa cuộc đời, một cái tôi khảng khái đón nhận trải nghiệm riêng, sống với thật thà cảm xúc và tự tin đưa ra những lựa chọn đầy bản lĩnh. Cái tôi ấy luôn gắn bó với những món nợ nghĩa tình cùng làng mạc, đất đai và những biểu tượng văn hóa đã in sâu vào ký ức ấu thơ. Tiếng chuông làng, cánh đồng làng, trái bần chát chua, trăng rằm, con cò trắng bay ngang... tất cả đều là sợi dây vô hình kết nối cái tôi thi sĩ với quê hương, với cội nguồn. Thơ anh do vậy không thu mình trong sự cô đơn hay riết ôm nỗi lạnh lẽo cố hữu bản thể. Thơ anh hướng ra ngoài, giữ suối lòng trong sạch, dám khóc, dám yêu, thành tâm với tiếng lòng, dẫu có thể không được thấu hiểu, không được đáp lại:
Nếu buồn cứ khóc đi em
hiếm gì nước mắt mà đem giấu đời
tội tình chi cái nụ cười
mà mang ra diễn để người tưởng vui
trung thu mưa gió sụt sùi
đến trăng gương cũng ngậm ngùi luồn mây
lá vàng gió mỏng kiếp này
nào ai đủ mặt nạ dày để che
(Mặt nạ)
Tư tưởng hiện sinh thơ Đỗ Thành Đồng nảy mầm ngay trong cấu trúc lục bát quen thuộc. Với Lục bát đời, anh đã cách tân thể thơ truyền thống bằng giọng điệu trĩu nặng suy tư thân phận. Vừa gần gũi vừa sắc cạnh, vừa mộc mạc, giản dị, vừa gai góc, từng trải, ngôn ngữ thơ anh đã nới rộng biên độ cảm xúc của người đọc, hướng đến sự trực diện và tính phản biện. Điểm nhấn trong phong cách của anh là khả năng vận dụng linh hoạt các phương thức biểu đạt của lục bát. Những âm điệu đời thường được lồng ghép cùng hệ thống biểu tượng giàu sức gợi, tạo hiệu ứng nhạc tính lúc miên man trầm lắng, lúc sắc sảo dứt khoát. Ngôn từ thơ anh tựa mạch ngầm tuôn chảy tự nhiên, dẫn dắt người đọc qua nhiều tầng nhận thức đối lập nhưng vẫn giữ hồn cốt thể thơ dân tộc. Sự hòa bện giữa hiện thực khốc liệt và những chấm phá siêu thực lãng mạn khiến chất trữ tình luôn song hành cùng tính chiêm nghiệm, giễu nhại và những khát khao thầm kín như ở các câu thơ: Đời như một đám mẻ chai/ bước vào sợ hãi bước hoài sẽ quen (Đời); Dao người thiên hạ chém cùn/ còn mình cứ trở sống lưng mà mài (Gan); Mỗi ngày nhặt một nỗi buồn/ bao năm đủ vốn đi buôn nụ cười (Buôn); Hớp vài ngọn gió cầm hơi/ nhấm câu thơ cũ với người xa xưa (Đói); Gọi nhau rách cả chân trời/ mà mưa vẫn cứ mưa rơi ngập mình (Gọi mưa)...
Cái tôi trong Lục bát đời của Đỗ Thành Đồng không ngơi vấn đáp nỗi cô đơn, lo âu, cái chết và sự phi lý của tồn tại. Cái tôi ấy miệt mài tìm kiếm đường đi để sống trọn vẹn với sự tự do dẫu sự tự do này chất chứa nhiều day dứt, dằn vặt. Anh viết bằng giọng điệu của người từng trải, đã nếm bao đớn đau bi kịch nhân sinh, thấu hiểu giới hạn của niềm tin nhưng vẫn gìn giữ cõi tâm thanh khiết. Trước thế cuộc bộn bề, trật tự tuyệt đối đã rạn vỡ và mọi chân lý đều có nguy cơ bị lung lay thì sự trung thực trong cảm xúc ấy càng trở nên đáng trân quý. Đây chính là căn cước Lục-bát-đời, bản lĩnh riêng khác của anh.
H.T.A
(TCSH439/09-2025)
------------------
1 Đỗ Thành Đồng, Lục bát đời, Nxb. Hội Nhà văn, 2025.
2 Tên các tập thơ của Đỗ Thành Đồng.