LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
63 vùng đất của đất nước trở thành 63 dòng thi khúc hội tụ trong tập thơ Dắt nhau về cũ (Nxb. Hội Nhà văn, quý 3/2025). Mỗi bài thơ là một miền nhớ thương, một ký ức sâu đậm và thông điệp lặng lẽ treo trên dòng thời gian.
Nhà thơ Lữ Mai gắn 63 vùng đất đó bằng những chuyến hành hương mộng ảo xuyên Bắc - Trung - Nam, từ đồng bằng đến miền núi, từ biển cát đến cao nguyên để nghe cảm niềm trắc ẩn của con người, sông núi, gió trăng, ruộng đồng… Những khung cửa cảm thức được mở ra cho người đọc bước vào, tự lắng nghe lời miên man, tư lự cùng vần cùng chữ. Mời bạn cùng “dắt nhau về cũ” trong từng dòng chữ, để thấy tấm bản đồ hồi tưởng về 63 tỉnh thành, nay sáp nhập lại còn 34 mà Lữ Mai kịp “làm đậm hương” trong trí tưởng.
Điều đầu tiên, tôi chú ý đến những dòng sâu lắng về một Hà Nội chan chứa nỗi niềm như đương khâu vá lại từng mảng ký ức còn chưa kịp bong tróc: “gió khâu rêu lệch vai tượng đá/ phố cũ vá mùi mưa” (Nét thu). Hà Nội của Lữ Mai không hào nhoáng, phô trương mà thấm đẫm thương yêu và hoài niệm. Những động từ “khâu”, “vá” gợi sự tỉ mẩn, nhẫn nại của một người gắn bó đủ lâu với Thủ đô văn hiến, đã kịp khám phá cái dung nhan cổ kính của thành phố nghìn năm tuổi. Tác giả đã gọi và giữ được hồn Hà Nội, vì Hà Nội đẹp nhất mỗi độ nét thu về trìu mến. Những mũi kim sắc bén của cảm xúc luôn chứa đựng mọi nhớ thương đều quá cỡ đã kịp làm lành những mảnh ký ức Hà Nội.
Đây đó là lời tụng cổ được rút ra từ một ngọn nguồn xa vắng biên cương: “Nơi đất trời nghiêng về một phía/ nơi những cung đường bắt vía người đi/ trắng ghì sông Đà/ Không còn nước/ cũng không còn sóng” (Cửa đêm). Giờ đây đất, trời, đường, nước, sông, sóng… vây chặt con người trong một ma trận lặng im. Hình ảnh “cung đường bắt vía” đầy ám gợi, biểu hiện cho những bất trắc khó lường như Nguyễn Tuân từng viết: “nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn”. Cuộc sống của những con người nơi biên thùy ngày ngày chiến đấu với những cung đường tử thần, với sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống gian nan. Người đã đi qua không còn nguyên bản như thuở ban đầu, thay vào đó là ý chí, là sức mạnh nội sinh được huân tập, luyện rèn. Sông Đà là một biểu tượng lớn của thi ca hiện đại và với Lữ Mai sông Đà có tánh linh, cố cưỡng lại dòng chảy khốc liệt vô song của mình. Sông Đà ấy chảy qua vết cắt thời gian để tự bào mòn, tự tĩnh và trống trong một biến thể khác đương vắt lên điều cả nghĩ của thi nhân.
Ở một thái cực khác, thơ như từ sử thi chắt chiu vọng lại, rồi phun trào thành khói sương, thành ánh sáng, thành lau trắng: “những linh hồn cưỡi ngựa/ triền đồi lau trắng dạ thưa/ cây đậu quả không vì mưa nắng/ bởi lòng người lung lửa bên trong” (Trước dòng Thương). Những truyền kỳ, huyền thoại rong ruổi trong ý nghĩ cũ càng sa trường, trận mạc, chiến chinh... Cuộc hành trình vẫn tiếp tục như chưa hề đứt quãng. Lau trắng hoang hoải, chia ly vẫn còn nguyên tiếng “dạ thưa” thao thiết. Mọi thứ mờ nhòa vào một buổi giao canh sống và chết, đêm và ngày, ngộ nhận và sự thật. “Lòng người lung lửa” như một thông điệp của sáng tạo và duy trì thế giới thơ u huyền, phi lý mà cũng rất đỗi thật thà.
Ngàn năm đất nước vẫn còn đây, sông núi hãy còn đó để gieo vần thơ như được viết ra từ hơi thở của đất của nước, của núi sông trầm mặc và u uẩn nơi Cố đô Hoa Lư: “Lệ khô chắt thành mạch núi/ thở cùng sương vầng trăng lạc lối” (Vời vợi). Nước mắt đã hóa thân, vầng trăng không còn minh định. Cảm xúc hữu hình của con người khơi những mạch ngầm bền vững, vĩnh cửu chảy và thở cùng tự nhiên giao hòa.
Vào đến Huế, người đọc ngỡ ngàng khi chạm đến một chu trình từ tinh khiết đến hư vô, từ cái sống phong nhã đến sự tan biến giả định trong một giọt trà: “Trà ngấm cạn môi/ ai oán hòa ruột đất/ người rót lặng im trong vắt/ ngọc ngà tan thành quách rùng mình” (Trà nương). Bài thơ viết giữa thành Huế “chờ ta tháng ngày củi mục” như một nghi thức thầm thì giữa người, đất và khoảnh khắc thấm sâu, úa màu. Tác giả đã tập kết bi thương, thời gian, nhịp sống, lịch sử, thân phận gợi lên chút tao nhã trong veo như giọt sương chưa hề vấy bẩn. Chiều không gian cảm xúc được xoay chuyển, luân hồi cả tinh khiết, nỗi buồn và cả điều không phải cuối cùng. Huế nén đủ trong vài tiếng chữ lắng đọng, trong bàn tay rót trà của trà nương đã trôi vào miên viễn cùng chén ngọc, cùng mây tàn.
Dắt nhau về cũ chứa nhiều khát vọng thầm kín, tưởng ngẫu nhiên như không ai gieo mầm, không ai chứng thực mà kết ra một định đề: “Không ai trồng nổi giấc mơ/ nhưng hoa hồng vẫn mọc” (Đèo mây). Niềm tin thầm lặng trú ngụ trong ta, tự cấy rễ và xây dựng mạch sống âm ỉ, kiên cường, bất chấp. Khoảng lặng tự nhiên đó không cần “trồng”, vẫn nghiễm nhiên “mọc” giữa con người ưu tư và thế giới sống động. Có những thứ dù ta hoài mong, cố mưu cầu chưa chắc đã tạo kết quả như mong muốn. Mọi thứ không hoàn toàn do ta xếp đặt, không tự nhiên mà thành, tất cả xuất phát từ trái tim chân thật, từ niềm tin sắt đá và cả bản thiện như những vần thơ thoạt kỳ thủy trên đèo mây, trên cao nguyên lồng lộng sử thi.
Rồi một vệt lửa đi qua miền mộng, đốt cháy và gieo nở huyền thoại nơi khúc ruột miền Trung: “Ta là gì giữa miền loang lổ cháy/ giữa mộng dài thanh long/ hoa nở cùng đêm/ kết trái vào giấc ngủ” (Võng cát). Người thơ đang soi mình giữa mộng dài nắng cát. Tôi đặc biệt ấn tượng với hình ảnh “Mộng dài thanh long” có chút tượng trưng kỳ dị. Nghi vấn của một bản thể người nặng mang cả ngắc ngoải lẫn nhựa sống. Từ đó, ta cảm nghiệm được cái nữ tính nguyên thủy, của sự sống nơi tận cùng tối tăm đã âm thầm thai nghén trong bóng tối hoa nở dịu êm.
Và đây phương Nam chớp hiện những liên tưởng giao thoa giữa con người, thiên nhiên và thời gian trong một lát cắt rất mong manh giữa tỉnh và mộng, giữa bóng đêm và giấc ngủ, giữa trời và nước, giữa cánh cò và vầng trăng, giữa đứa trẻ và loài cá linh mùa nước nổi: “cò trắng tìm mảnh vỡ trăng/ cá linh búng vào trẻ con giấc ngủ” (Mảnh trăng). Người thơ đi tìm cái đã tan biến, cái từng là nguyên vẹn, từng là ánh sáng nhưng chỉ còn lại nỗi mong manh, đầy tiếc nuối. Khúc ru thời gian cũ không còn nguyên hình hài, đã vỡ như ánh trăng, đã hóa thành một cơn mơ huyền hoặc. Ta như bị đánh thức bởi sự tinh tế của cái “búng” như gõ cửa vào mộng mị. Lữ Mai gieo vào lòng người đọc một cảm thức hiện sinh, bay lên từ vùng trời cũ, từ những giấc mơ Nam phương xao xác và dịu dàng như hơi thở mộc.
Lữ Mai nhạy cảm với thời gian, đặc biệt với khúc giao giữa ký ức và hiện tại, vừa vẹn nguyên lại vừa bung vỡ qua hai câu thơ cô đặc nhưng ăm ắp hình ảnh khi đứng giữa Thành phố Hồ Chí Minh: “Báo cũ gói bình minh/ giàn bông giấy bất thình lình lặng lẽ” (Từ hẻm gió). Cái mới được ấp ủ “gói” trong vỏ cũ, quá khứ đầy dấu vết trong một sức sống tươi mới, rạng rỡ hiển hiện cùng khoảnh khắc mong manh. Bông giấy luôn rực nở lại miên man tự vấn như cách người thơ chạm vào không gian ký ức man mác và đầy ẩn ngôn.
Có những câu thơ ngắn ngủi nhưng lại chứa cả một đoạn trường hun hút như bóng một ngọn đèn dầu cũ: “Men rạng vết trăng treo/ sáng chập chờn đêm ấy Lái Thiêu” (Trong men). Những mảnh ký ức ánh lên, không rõ hình, không rõ tiếng. Trăng thành một dấu tích, một vết nhớ từng treo trên trời, treo lên thớ gốm mộng mị tưởng chừng tan vỡ. Hoài niệm đó không thể đặt tên và ai đó đã gửi ngược lời thì thầm về khoảng đêm xưa khi ánh trăng hiện, men cay và lòng người hãy còn vẹn nguyên.
Sau Giấc (Nxb. Hội Nhà văn, 2010), Mở mắt rồi mơ (Nxb. Hội Nhà văn, 2015), Thời cách ngăn trống rỗng (Nxb. Hội Nhà văn, 2019), Vực trắng (Nxb. Hội Nhà văn, 2024), Dắt nhau về cũ là tập thơ thứ năm xuôi về một dòng cảm thức, Lữ Mai sau 15 năm miệt mài, tứ và tình vẫn “như khăn mới thêu”. Đó là chưa kể bốn trường ca dày dặn Ngang qua bình minh (Nxb. Văn học, 2020), Chư Tan Kra mây trắng (Nxb. Văn học, 2021), Hồi sinh (Nxb. Hội Nhà văn, 2022) và Lũ (Nxb. Hội Nhà văn, 2024) cho thấy niềm đam mê lặng lẽ, sâu kín mà luôn bùng phát đến bùng cháy của nữ tác giả 8x với con chữ. Lữ Mai đã kịp mới thêm lần nữa cùng Dắt nhau về cũ, bổ sung vào gia tài thi ca có thể nói là rất đáng ngưỡng mộ. Chị đã thu gọn hành trình 63 tỉnh thành và kịp gieo hạt mầm ký ức, nảy nở thành một tập thơ đủ đầy và kịp “sáp nhập” trong tâm tưởng thi nhân. Ta đã gặp lại Hà Nội mỏng manh rêu phong, lắng nghe sông Đà ru tiếng vọng, những dặm dài thương nhớ nơi biên cương, chút se sắt đậm hương Đồng bằng Bắc Bộ, rồi chạm vào Huế qua giọt trà nồng lạnh, miền Trung nắng gió, Đà Lạt trĩu giấc mơ nhụy hồng, Nam Bộ chập chờn men cay, cá linh mộng mị… Và hãy để mỗi bài thơ tự lớn lên như những giấc mơ vẫn luôn được nối dài trong mỗi chúng ta.
L.V.T.G
(TCSH440/10-2025)