Tác giả-tác phẩm
"Người gieo chữ": hoài vọng khai dân trí
10:01 | 20/11/2025

TRẦN BẢO ĐỊNH

Tiếp nối Bạc Liêu truyện (2022), Miền đất mặn (2024), tác phẩm Người gieo chữ (2024) là truyện dài của nhà văn Phùng Quang Thuận viết dâng hương hồn ông ngoại - Lưu Được tự Hườn; và cũng nối dài nỗ lực của nhà văn trong việc giữ gìn giá trị văn hóa lịch sử của quê hương Bạc Liêu nói riêng, của Nam Bộ nói chung.

"Người gieo chữ": hoài vọng khai dân trí
Ảnh: tư liệu

Tác phẩm vừa như tiểu thuyết gia đình vừa như tiểu thuyết phong tục, và qua đó bạn đọc nhìn thấy được tiến trình lịch sử của Nam Bộ từ đầu đến nửa sau thế kỷ XX - một giai đoạn đầy biến động và nhiều sóng gió. Thông qua câu chuyện gia đình, phong tục tập quán, nếp sống con người Bạc Liêu xưa được trình bày thành dòng chảy xuyên suốt với nhiều biểu hiện đặc sắc. Đó là dòng mạch tạo nên kết nối hồn người hôm nay với ngày xưa; từ chỗ hiểu người xưa, ta hiểu thêm chính ta hôm nay. Và nổi bật hơn cả, tác phẩm Người gieo chữ đã bày tỏ một cách trong sáng và cao thượng hoài vọng khai dân trí của người xưa. Đó là điều đáng suy ngẫm cho con người đương thời.

Nhân cách một người thầy

Văn hóa giáo dục gắn liền văn hóa đạo đức con người, nhà văn Phùng Quang Thuận xây dựng thành công những hình tượng nhân vật vừa đặc trưng vừa tiêu biểu cho nhân cách văn hóa Bạc Liêu nói riêng, nhân cách văn hóa Nam Bộ nói chung. Hình tượng những người phụ nữ như Cô Sáu Thường giúp người phương xa hiểu thêm tâm hồn và phẩm hạnh người phụ nữ Bạc Liêu cũng như Nam Bộ. “Thái độ của cô Sáu luôn nghiêm trang và chừng mực khiến ông Đốc công Trạch càng quý mến cô hơn” (tr.9). Và chính nhân cách, phẩm hạnh của người phụ nữ (người bà, người mẹ, người vợ) đã góp phần hun đúc nên tâm hồn con người xứ sở từ trong mái gia đình. Qua đây ta cũng thấy, chính phẩm hạnh người mẹ như Cô Sáu đã góp phần hình thành nhân cách người thầy - Ông Đốc Quờn. Bên cạnh câu chuyện gia đình cũng là câu chuyện lịch sử, nhà văn cho thấy những con người chân lấm tay bùn vùng đất Nam Bộ, dẫu bình dị, lặng lẽ sống nhưng họ chính là những người sẵn sàng đứng lên chống ngoại xâm cứu quê hương. “Trong gia đình của cô Sáu Thường, còn có nhiều người yêu nước chống Pháp, vì vậy họ vừa phải lẩn tránh triều đình Huế vừa phải lẩn tránh cả giặc Pháp” (tr.9). Thế nên, trong Nam Bộ có nhiều trường hợp phải thay tên đổi họ. Tinh thần xả thân đó về sau còn nhìn thấy trong tâm huyết của ông Đốc Quờn, hy sinh lợi ích bản thân để thực hiện nguyện vọng mở trường của ông ngoại mà cũng là tấm lòng của ông dành cho học trò nghèo đất Bạc Liêu. Ta càng thấy vai trò truyền thống gia đình rất quan trọng trong việc hình thành nền nếp gia phong cũng như nhận thức đạo đức cho con cháu từ hồi thơ ấu đến suốt cuộc đời. Điều này vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt trong bối cảnh đương thời khi mà hệ giá trị gia đình bị tác động bởi nhiều yếu tố xã hội ngoại lai.

Đạo đức gia đình Cô Sáu Thường không chỉ góp phần hun đúc đạo đức người con Lưu Được tự Hườn mà còn hun đúc nên nhận thức vai trò của người chồng trong mái gia đình. Bởi cha mất sớm, mẹ (là Cô Sáu) phải tần tảo bán chè nuôi các anh em ăn học, Lưu Được bấy giờ đã cảm nghiệm sâu sắc nỗi vất vả của mẹ cũng như của người phụ nữ nói chung trong mái gia đình. Vì thế, sau này thành gia lập thất, ông càng thương quý những người vợ. Bản thân ông Đốc Quờn cũng từng trải qua nghèo khó từ lúc còn thơ ấu, ông càng quý trọng tình nghĩa vợ chồng đỡ đần cùng nhau vượt qua gian khó. Cuộc đời ông Đốc Quờn có lẽ cũng là cuộc đời cơ cực của người Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc đời có những khi ngọt ngào song cũng lắm gian truân, nhất là nỗi buồn đau mất người thân. Người vợ hiền bị bệnh thiên thời qua đời, gieo lại trong lòng ông nỗi buồn vô hạn. Qua gia cảnh và nội tâm ông Đốc Quờn ta cũng nhận ra phần nào bối cảnh văn hóa bấy giờ. Có thể nói chất liệu văn hóa góp phần quan trọng hình thành giá trị của trang viết Phùng Quang Thuận. Bên cạnh mục đích xây dựng nhân vật (tâm lý, bối cảnh gia đình, bối cảnh xã hội), nhà văn thường trình bày nhiều khía cạnh đời sống, mà qua đó bạn đọc có cơ hội hiểu thêm về đời sống con người bấy giờ. Ví dụ như biến cố gia đình đưa ông Đốc Quờn đến với Hội Thông Thiên học và Hội Phật học Bạc Liêu. “Ông đơn độc cố vượt qua nỗi đau của riêng mình… Thời gian còn lại, ông nghiên cứu các hoạt động của Hội Thông Thiên học và thỉnh thoảng tới Hội Phật học Bạc Liêu tìm chút bình an cho tâm hồn. Là người theo Tây học, tin vào khoa học, giờ ông hoang mang chợt hiểu ra cuộc đời con người thật mong manh và nhiều giới hạn, không ai có thể vượt qua được bệnh tật và cái chết…” (tr.25). Những suy tư của ông Đốc Quờn càng thêm sâu sắc khi ông đã cảm nghiệm sâu sắc nhãn quan nhân sinh từ góc độ Nho giáo, Phật giáo, Thông Thiên học. Qua đó, ta cũng thấy bối cảnh xã hội Bạc Liêu đầu thế kỷ XX với sinh hoạt tâm linh tôn giáo đa dạng.

Bối cảnh văn hóa trong trang viết Phùng Quang Thuận như cách thức nhà văn phác họa chân dung nhân vật. Với bối cảnh xã hội đầu thế kỷ XX, chúng ta nhìn thấy hình tượng ông Đốc Quờn vừa có nét truyền thống, vừa có nét hiện đại, vừa có tư tưởng phương Đông vừa có suy tư rất phương Tây. Riêng trong nhân cách và đạo đức, ta thấy một tâm hồn rất Việt Nam, đặc biệt ông dành niềm thương nhớ vợ, biết ơn vợ, và tôn kính đức hy sinh của vợ cũng như những người phụ nữ nói chung. Minh chứng cho điều này, bạn đọc có thể bắt gặp nhiều chi tiết truyện, vừa có giá trị văn hóa vừa có giá trị trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Đó chính là sự chăm sóc yêu thương của người vợ dành cho gia đình mà ông Đốc Quờn không thể quên lãng. Cùng với nét đẹp văn hóa ẩm thực gia đình, còn là những ký ức không mờ phai về hình bóng người mẹ, người vợ tần tảo và vén khéo. Người phụ nữ Nam Bộ xưa hiện lên thật đẹp đẽ, hiền hậu. “Mùa nóng bà nấu canh chua, canh khổ qua, canh rau tập tàng để giải nhiệt, có khi còn làm me ngào đường cho mọi người ăn chơi để phòng các loại ung nhọt. Mùa mưa trời lạnh thì nấu các món gà sả ớt, vịt kho gừng, cá trê chiên nước mắm gừng hoặc các loại cá lóc, cá rô kho nhiều tiêu, hành cho ấm tỳ vị. Các loại rau cải, bà cũng lựa chọn ăn theo mùa để giải nhiệt hoặc chống phát hàn sinh bệnh…” (tr.26). Văn hóa ẩm thực không chỉ làm đẹp mái nhà, làm ấm gia đình mà còn cho thấy mối quan hệ hài hòa giữa con người và môi trường sống. Chính vậy, nhiều đêm ông một mình trong căn nhà trống trải mà thương nhớ vợ. Càng thương vợ ông càng thấy phận số nghiệt ngã; người phụ nữ đoan chính trung hậu mà phận số mỏng manh ngắn ngủi. Càng nghĩ, ông càng thương tiếc vợ.

Phần ông vẫn bận lòng về việc mở trường. Ở đây, nhà văn Phùng Quang Thuận đã khắc họa những day dứt trong nội tâm nhân vật. Giữa lợi ích gia đình và tâm nguyện mở trường cho học trò nghèo có nơi học hành, phát triển dân trí quê hương. Nhìn di ảnh hai bà vợ, ông càng thêm vững vàng ý chí. Từ đó, trong hình tượng người chồng người cha người ông, ta nhận ra nhân cách một người thầy. Bức chân dung người gieo chữ khiến bạn đọc xúc cảm. Ở đó bạn sẽ nhìn thấy hình tượng con người nặng tình, một hình tượng con người mô phạm, mẫu mực và cũng thâm trầm ưa mặc tưởng lặng lẽ và chiêm nghiệm. Nhà văn Phùng Quang Thuận dường như vừa đứng gần nhưng cũng đứng từ xa để nhìn tầm vóc con người ấy. Có khi là những cử chỉ nhỏ với thằng nhỏ “xách cơm”, từ cự ly gần, nhà văn cho thấy trái tim ấm áp của ông Đốc Quờn dành cho con cháu. “Đứa nhỏ thường ngạc nhiên khi ông ngoại nhắc như vậy, vì có cuốn nào dính bụi đâu. Trong phòng đọc sách của ông, sách văn học và sách triết tiếng Việt đâu có nhiều, đa số là sách tiếng Pháp và các báo hay tạp chí do ông đặt mua định kỳ. Sau này đứa cháu nhỏ mới hiểu là ông ngoại muốn nó làm quen, đọc thử mấy loại sách đó” (tr.76). Tâm ý của ông những muốn cháu tiếp cận sách vở, lần lần tìm đọc và ham thích tri thức. Chuyện lau bụi chỉ là cái cớ để ông tập cho cháu tình yêu sách vở, tri thức. Việc này cũng gợi cho ta nhiều suy ngẫm về văn hóa đọc hiện nay, mỗi gia đình đều nên có một tủ sách gia đình thay vì những tủ rượu đắt tiền.

Nhắc nhở hình tượng người thầy đời xưa (Đức Khổng Tử, Chu Văn An, (tr.110-111), ông Đốc Quờn nhắc nhở đứa cháu nhỏ nhưng cũng là nhắc nhở chung người đứng trên bục giảng gắng trau dồi đức độ trong việc giảng dạy cũng như cuộc sống cá nhân hằng ngày. “Còn một vị thầy đáng kính nữa ở Gia Định là thầy Võ Trường Toản. Ông là người có học vấn uyên thâm, tính tình cao nhã, xem nhẹ danh lợi. Thầy ở ẩn mở trường dạy học, học sinh theo học rất đông, thầy đào tạo được rất nhiều nhân tài cho đất nước. Đây là vị thầy thứ hai mà đời đời những người làm giáo dục phải tôn kính và noi gương. Con phải noi gương học hành an bần lạc đạo và hy sinh cống hiến cho đời như hai danh nhân văn hóa này [tức Chu Văn An và Võ Trường Toản] (tr.111-112). Bằng chính hành động cụ thể, ông Đốc Quờn trở thành tấm gương cho những thầy cô giáo yêu nghề dạy học ở Bạc Liêu, được người dân trọng vọng, được học trò tôn kính. Ông cũng mong mỏi đứa cháu nhỏ nhận thức và giữ gìn nhân cách sư phạm phù hợp, trước khi cháu lên đường rời quê tiếp tục nâng cao sự học, ông còn ân cần dặn dò. Bởi ông rút kết từ cuộc đời giáo dục của mình: “Kiến thức, đức độ, nhân cách của người thầy sẽ gây được lòng tin của xã hội, của phụ huynh, họ sẽ gởi nhiều học sinh tới học, và học với thầy giỏi thì học sinh sẽ giỏi và có đạo đức tốt, họ là cột trụ của gia đình, làng xóm và nước nhà” (tr.109). Người thầy không chỉ dạy học trò bằng lời nói mà còn dạy học trò bằng chính cách sống của mình. Lẽ rất dễ hiểu, người thầy là tấm gương cho học trò noi theo. Bất luận giáo dục xưa hay nay, điều đó vốn luôn cần được ý thức sâu sắc và thực hiện. Việc học là trọng tâm, việc dạy là trọng điểm; nhân cách và tác phong sư phạm là trọng yếu giúp cho việc dạy và học được tiến hành thuận lợi tốt đẹp. Tác phong sư phạm của thầy, tác phong học tập của trò tạo nên nét đẹp mái trường.

Tâm huyết của người thầy

Tâm huyết của người thầy trước hết vì tâm nguyện của ông ngoại, của mẹ; sau nữa là kết quả lòng biết ơn. Hiếu thảo, ân nghĩa là nền tảng cho tâm huyết của người thầy Lưu Được tự Hườn suốt kiếp người. Qua quá trình học vấn của ông Đốc Quờn, bạn đọc hẳn sẽ nhận ra nền học ở Nam Bộ chuộng cái học thiết thực và trước tiên là học làm người, để sống nghĩa, hơn là học để kiếm danh lợi. Bởi như lời kể của nhà văn Phùng Quang Thuận trong tác phẩm Người gieo chữ, những người Nam Bộ xưa cũng rất hiếu học. Hiếu học ở đây là ham thích hiểu biết, tình yêu với kiến thức, ham được mở mang, thích được biết tỏ tường thế giới xung quanh. Cốt yếu sự học chính từ chỗ chưa biết mà thành ra biết. Đó là yếu chỉ ham học ở Nam Bộ. Hình ảnh chú nhỏ Năm Hườn lẽo đẽo theo mẹ bán chè, dùng đèn khí đá đọc sách vở hai anh lớn học trước để lại khiến cho bạn đọc xúc động. “Chú nhỏ Năm Hườn (giọng miền Nam đọc là Năm Quờn) rất ham học, sách vở của các anh học xong bỏ lại, chú cất xếp cẩn thận và lần lượt lấy ra tự học. Cô Sáu thấy con ham học như vậy rất mừng nhưng cũng chạnh lòng vì cảnh nhà ngày càng sa sút, chồng mất nên các tiêu chuẩn cũng mất hết, các con còn đang đi học, chưa đứa nào đi làm” (tr.12). Biết hoàn cảnh đó và rất cảm động nên một buổi tối gần chợ Bạc Liêu, có hai vợ chồng người Triều Châu ngỏ ý giúp chú nhỏ Năm Hườn được đi học. Hỏi gia cảnh Cô Sáu Thường và chú nhỏ Năm Hườn hiếu học nhưng không có giấy tờ đi học, hai vợ chồng người Triều Châu càng cảm thương. Họ quyết định lấy tờ khai sinh của đứa con vắn số cho cô Sáu để cô có giấy khai sinh cho Năm Hườn đi học. Hai vợ chồng người Triều Châu giúp đỡ với tấm lòng trong sáng “thi ân bất cầu báo” và con chữ mà cậu nhỏ Năm Hườn học được chính là tạo quả của ân nghĩa ấy. Con chữ đó là kết quả của lòng biết ơn để mai sau cậu nhỏ trưởng thành tiếp tục gieo trồng con chữ trên mảnh đất Bạc Liêu giàu tình người.

Không chỉ xây dựng được hình tượng ông Đốc Quờn thật xúc động, nhà văn Phùng Quang Thuận còn khắc họa nội tâm giằng xé, đau xót và sự quyết tâm của ông trong việc xây dựng trường cho học sinh nghèo. Trong quyết định đó, ta thấy hàm chứa suy nghĩ về đời người vô thường (tr.45), hàm chứa trong đó sự tri ân và tình thương yêu dành cho hai bà vợ; và trên hết là lòng hiếu thuận với mẹ (tr.44). Công danh, sự nghiệp để báo hiếu mẹ; tình yêu thương và tâm nguyện của hai bà vợ: tất cả ông dồn hết vào mong mỏi lập trường cho học trò nghèo. Ngôi trường ấy không chỉ là khát vọng của ông mà còn là hiếu đễ ân nghĩa với người thân yêu. Đó là nỗi hoài vọng hướng đến cái chung, giá trị bền vững theo thời gian: “Ông Đốc Quờn tự trả lời: “Kỷ niệm để lại của đời mình là một ngôi trường cho những thầy giáo yêu nghề và những học sinh ham học. Một kỷ niệm lớn của nhiều người, không phải là những kỷ niệm nhỏ của cá nhân một ai nữa…” (tr.58). Đó là suy nghĩ cho thấy tâm hồn ông Đốc Quờn đã vượt qua những tư lợi cá nhân thông thường, cuộc đời ông lớn hơn phạm vi danh lợi của chính ông, lớn hơn tấm thân ông, lớn hơn khoảng thời không mà một người có mặt trên thế gian. Đó là khi tâm hồn ông đã trang trải cho mọi người, nhất là những thầy cô giáo yêu nghề và những học trò nghèo trên quê hương ông. Tâm huyết đó sẽ còn sống mãi trong lòng người, sống mãi cùng với mảnh đất Bạc Liêu giàu nghĩa nhân. Và tâm huyết đó ấn chứng nỗ lực khai mở dân trí trên mảnh đất “cơ cầu” buổi đầu nhiều gian khó.

Ngoài ra, tâm huyết của người thầy còn biểu hiện qua những trăn trở cả đời ông Đốc Quờn về triết lý giáo dục. Sống trong thời Pháp thuộc cho tới lúc đất nước chia đôi, ông nhận thức sự biến đổi của triết lý giáo dục theo từng thời đại và bối cảnh xã hội khác nhau. Cho đến tuổi xế chiều ông vẫn còn băn khoăn và sau đó căn dặn đứa cháu nhỏ tiếp tục suy nghĩ. Lẽ băn khoăn của ông Đốc Quờn là có lý bởi mỗi nền giáo dục có định hướng khác nhau nên dựa trên triết lý khác nhau, giáo dục phương Đông khác phương Tây, hiện đại hẳn nhiên khác trung đại. Ngay như ở giáo dục phương Tây, theo như ông Đốc Quờn tìm hiểu, cũng có nhiều chủ thuyết khác nhau: chủ thuyết trường tồn, chủ thuyết thiết yếu, chủ thuyết tiến bộ, chủ thuyết hiện sinh, chủ thuyết kiến tạo xã hội (tr.106-107). Ông nhận thấy mỗi chủ thuyết đều có ưu nhược điểm riêng. Nhưng điều khiến ông lo nghĩ đó là chủ thuyết nào phù hợp cho giáo dục Việt Nam và còn lo nghĩ bởi đó là vấn đề hệ trọng, to lớn, vượt ra ngoài khả năng của ông. Song không phải vì vượt ngoài khả năng cá nhân mà ông có thể cho qua một cách dễ dàng. Hơn thế, ông nhắn nhủ, gửi gắm cho thế hệ tiếp theo, mong mỏi ở tương lai với triết lý giáo dục toàn diện ở tầm quốc gia, thấu suốt nhân dân, giúp mở đường lâu dài cho vận mệnh đất nước.

Tầm nhìn của người thầy

Thực dân Pháp đến Việt Nam xâm lược, sau tiến hành bình định và tiếp theo là giai đoạn khai thác thuộc địa. Trong thời gian đó, người Pháp với danh nghĩa khai hóa cho dân Annam, với chiêu bài chủ nghĩa nhân văn khai phóng; thế nhưng thực chất nền giáo dục mà thực dân Pháp xây dựng trên đất Nam Kỳ đầu thế kỷ XX chỉ nhằm mục đích phục vụ cho bộ máy cai trị. Hơn nữa, đó là chính sách đồng hóa của người Pháp, muốn dùng nền giáo dục Pháp để làm suy giảm nền học, đồng thời làm người dân mình quên đi nguồn cội. Ông Đốc Quờn nhận thấy rõ dã tâm đó, nên âm thầm lập kế hoạch mở trường tư thục (tr.32). Ông Đốc Quờn nhận thức sâu sắc về dã tâm xâm lược và thuộc địa hóa của thực dân Pháp. Bằng giáo dục, thực dân muốn nô lệ tâm hồn con người Việt Nam vào văn hóa Pháp. Tuy nhiên, những người Việt chân chính và yêu quê hương đều biết rất rõ ràng: điều đó là không thể! Bởi nền tảng văn hóa dân tộc in hằn sâu đậm trong mỗi tâm hồn. Người Việt tiếp thu những khía cạnh tiến bộ của nền văn hóa và khoa học phương Tây, song trích lọc và cân nhắc trước những khẩu hiệu “khai hóa” của thực dân; và nhất là luôn giữ gìn đạo nhà, thờ cúng gia tiên, kết nối liên thế hệ, khiến cho mạch sống và tâm hồn giống nòi mãi mãi lưu truyền.

Nỗi lòng vì sự nghiệp phát triển giáo dục, vì mong mỏi mang con chữ đến cho con nhà nghèo mà Đốc Quờn vượt qua khó khăn của bản thân, vượt qua đau thương của việc mất người thân, càng gượng dậy để theo đuổi con đường giáo dục. Ông thấy “con nhà khá giả, có điền sản, đi học xa nhà khi còn nhỏ tuổi, không có ai giúp đỡ kèm cặp thì xác suất thành công rất thấp và thường mất căn bản do việc giảng dạy bằng tiếng Pháp, lại thiếu sách vở và tài liệu học tập. Còn con nhà nghèo, con mồ côi, con tá điền, chài lưới hay làm mướn làm thuê thì giấy khai sanh còn không có, lấy gì đi học” (tr.30-31). Trong quan niệm của Lưu Được tự Hườn, giáo dục là quyền cố nhiên của con người; dù giàu nghèo đều có quyền đến trường, học tập bình đẳng, phát triển toàn diện và có cơ hội như nhau trên bước đường đời. Muốn vậy, mọi trẻ em phải được tiếp cận giáo dục và tạo điều kiện để các em thuận lợi học tập. Nghĩ lại cuộc đời mình, ông càng biết ơn ông bà Lưu Nhâm - cha mẹ trên giấy tờ năm xưa đã cho ông mượn giấy khai sinh người con đã mất để được đăng ký đi học. Chính vì vậy ông càng quyết tâm theo đuổi sự nghiệp phát triển giáo dục, giúp cho những đứa con nhà nghèo giống như ông năm xưa (tr.31-32). Bạn đọc có thể nhận thấy: tầm nhìn giáo dục của ông Đốc Quờn vừa xuất phát từ chính hoàn cảnh bản thân vừa xuất phát từ nhận thức thực tiễn đời sống xã hội của con người thời bấy giờ; cũng như chính sách của Pháp dành cho việc giáo dục ở địa phương. Dù nhận thấy thực tiễn còn bao gian khó, song càng khó càng quyết tâm, bởi chỉ có giáo dục mới thực sự khiến cho tâm hồn con người vượt ra khỏi vòng nô lệ và nhận thức sâu sắc vai trò và trách nhiệm của bản thân trong cõi nhân sinh. Việc kiến thiết nền giáo dục là việc làm tiên quyết cho cách mạng giải phóng dân tộc. Thời đại mới bởi có những con người mới.

Thụ hưởng nền giáo dục phương Tây, song ông Đốc Quờn vẫn đề cao nền học vấn Nho giáo. Ở quan niệm giáo dục của ông, chúng ta nhận thấy sự trích lọc và kết hợp hài hòa cả nền học vấn Đông-Tây. Ông có tư duy và phương pháp khoa học của phương Tây nhưng cũng cho thấy phong thái và cốt cách của nhà nho xưa. Từ tủ sách của ông cho tới những câu hỏi của ông Đốc Quờn với đứa cháu nhỏ về Tứ Thư Ngũ Kinh (tr.94), về tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo (tr.95) đều cho thấy sự giao hòa Đông Tây đó. Mục đích giáo dục “để nâng cao dân trí, để phát triển nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài… Cốt lõi của giáo dục là chữ “nhân”, là con người, nói cho đủ chữ nghĩa là: nhân dân, dân tộc, khoa học và trách nhiệm toàn cầu” (tr.97). Qua những lời nhắn nhủ, dạy dỗ, dặn dò, ông Đốc Quờn đã trao truyền quan niệm giáo dục cho đứa cháu nhỏ. Đó là tâm huyết cả đời ông, là nỗ lực của cả đời ông và tâm niệm xuyên suốt sự nghiệp giáo dục của ông Lưu Được tự Hườn.

Còn hơn thế nữa, tinh thần gieo chữ của ông Lưu Được tự Hườn còn cho thấy tinh thần và giá trị thời đại. Sở dĩ nói vậy bởi giáo dục chính là bước đầu tiên để kiến tạo con người mới cho cuộc đời mới. Hơn thế, trong bối cảnh đất nước nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chỉ có giáo dục, tức khai dân trí mới giúp ích cho sự phát triển con người, phát triển xã hội và như thế chuẩn bị về mặt con người cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tinh thần thời đại của ông Đốc Quờn trong giáo dục có thể nói đã chịu ảnh hưởng từ nhiều chí sĩ yêu nước thời bấy giờ. Chí sĩ Phan Bội Châu trong bài diễn thuyết tại Trường Quốc Học Huế (1926) đã khéo léo nói ra được thâm ý của việc chánh phủ bảo hộ mở mang nền học: đó là để cắt đứt dòng mạch giáo dục dân tộc vốn có, tạo ra những “nô lệ ưu đẳng” và những công dân “hiệp tác với Chánh phủ mà thôi”1. Lời văn cho thấy chất giọng mỉa mai quan tây, nền học tây và chế độ bảo hộ tây; nhưng trong chất giọng đó của Sào Nam tiên sinh ta cũng còn nhận ra nỗi niềm ngậm ngùi trước tình trạng nền giáo dục ở nước ta bấy giờ. Bởi lối học khoa cử trước đó, theo tiên sinh, dù so với Âu Tây hẳn có những nhược điểm nhất định, so về đạo đức vẫn còn nhiều giá trị. Nhưng nguy rằng vì mục đích cầu học bấy giờ đều cốt ở “vinh thê ấm tử, ấm áo no cơm” cho nên “nhà không ra nhà, nước không ra nước”2. Vì cái lợi nhỏ của cá nhân mà cầu học thì nền học ấy là nền học của tiểu nhơn - một nền học nông cạn, thiếu chiều sâu mà đúng hơn là thiếu gốc nhân bản, thiếu cả ngọn hoài bão chí hướng. Người học của nền giáo dục đó chỉ là thứ cỏ cây mọc lan trên mặt đất, cam chịu núp bóng, hút lấy phần dưỡng chất cạn cợt trên mặt, không có chí đào sâu vào nền tảng đất đai sâu dày của quê hương. Hệ lụy của việc vội bỏ nền học cũ trong khi nền học mới chỉ là vay mượn, chính là “vượn học tiếng người; đạo đức cũ đã sạch sành sanh mà văn hóa mới lại không một tí gì vướng vấp”3; thế nên mất gốc học cũ, nông sơ nền học mới, khiến cho xã hội tràn lan những công dân chỉ biết ôm uống rượu tây, ăn thồn cơm tây, mặc quần áo tây, lái xe của tây, giữ túi tiền tây, ngồi ghế quan tây, ở trong nhà tây và rồi phưởng phất cái vỏ ngoài của nền văn minh tây trong xã hội ta thành ra lai căng dị hợm. Như vậy, so ra bản chất cầu học của nền học khoa hoạn lẫn nền học trường tây của chánh phủ bảo hộ rốt cuộc cũng chỉ vì vinh thân phì da - tức cái học tiểu nhơn. Như vậy coi như đã uổng phí mồ hôi nước mắt và máu huyết của mẹ cha. Tiên sinh cho rằng cái mục đích cầu học như vậy là đầu mối của thảm họa tối tăm xã hội. Bởi vậy tiên sinh gửi gắm đến những người trẻ đang theo đuổi về đường học vấn gồm cả đức dục, trí dục và thể dục. Trong đó, cụ Phan Bội Châu đề cao vai trò và giá trị văn chương trong việc hun đúc ý hướng thiện và hướng thượng cho tâm hồn con người có được chí lập ngôn, lập công, lập đức4. Quan niệm của Đốc Quờn về giáo dục cũng cho thấy điểm tương đồng và hướng đến toàn diện, điều này thể hiện qua cuộc trò chuyện giữa ông và đứa cháu mới vừa thi đậu. Ông hỏi cháu về quan niệm giáo dục và sau đó cắt nghĩa cho cháu về việc này (tr.92). Không chỉ vậy, ông Đốc Quờn còn liên hệ quan niệm giáo dục phương Tây và giúp ta nhận ra, quan niệm đông tây gặp nhau ở chỗ đều nuôi dưỡng, đào tạo nên con người hiểu biết và có giá trị phục vụ cho xã hội. Chính những lời dạy giản dị của ông ngoại Lưu Được tự Hườn đã gieo vào lòng đứa cháu nhỏ nhiều suy ngẫm. Bằng cách đó, ông Đốc Quờn đã trao truyền ý nghĩa của việc giáo dục đào tạo con người cho xã hội, cho đất nước.

Tóm lại, ông Đốc Quờn mở trường Nguyễn Du - trường học đầu tiên ở Bạc Liêu - chỉ với một mong mỏi duy nhất và khát vọng cao thượng: mở mang dân trí, đồng thời nâng cao dân đức, giữ gìn luân lý cho xã hội. Vấn đề đạo đức luân lý can hệ rất nhiều đến sự phát triển xã hội, đạo đức cũng là thước đo cho thấy sự tiến bộ của xã hội, cho thấy trình độ phát triển cao của nền văn minh (dù là giống nòi nào, dù là quốc gia mạnh yếu ra sao). Cũng như vậy, ông Đốc Quờn trong tác phẩm Người gieo chữ của nhà văn Phùng Quang Thuận cũng đề cao đức dục. Việc giáo dục luân lý kiến tạo nền tảng bền chắc cho tâm hồn con người, làm định hướng cho việc trau dồi kiến thức, phát triển năng lực. Hồi đầu thế kỷ XX, cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh coi trọng vấn đề đạo đức đối với sự phát triển của quốc dân. Tây Hồ tiên sinh thấy tình cảnh đạo đức truyền thống tiêu mòn, đạo đức ngoại lai từ Tây phương cũng chưa thành hình, tạo nên tình cảnh đạo đức bệu rệu, mục nát. Đó là nguồn cơn khiến cho dân trí, dân sinh yếu nhược. Tiên sinh nhấn mạnh đạo đức đích thực thì không phân biệt đông tây, mới cũ. Đạo đức theo quan niệm của tiên sinh là nền tảng cho sự tồn tại của con người trong cõi thế gian - đạo đức khiến cho người thành con người đúng nghĩa trọn vẹn chân chính. Đạo đức nhất thiết, luân lý tùy thời. “Phải có quốc gia luân lý in sâu vào óc thì sự ước ao tự do độc lập của dân tộc ta sau nầy mới thành tựu được”5. Giá trị thời đại của quan niệm giáo dục này càng được khẳng định trong bối cảnh hiện nay khi mà cách mạng kỹ nghệ và thời toàn cầu hóa mạnh mẽ. Từ “quốc gia luân lý” chúng ta có thể nghĩ bàn rộng hơn về hệ giá trị và chuẩn mực con người Việt Nam; trong đó là hệ giá trị đạo đức như bộ phận quan trọng hợp thành nền tảng hệ giá trị quốc gia. “Trong quá trình hình thành, phát triển, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đến nay, dân tộc Việt Nam đã tạo nên một hệ thống nhiều hệ giá trị khác nhau như: hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị tộc người, hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị chính trị,… Tùy thuộc vào lĩnh vực, đối tượng, chủ thể, góc độ xem xét mà mỗi hệ giá trị đó lại bao hàm những giá trị khác nhau và có những cơ cấu, trình tự thứ bậc khác nhau. Nhưng trong hệ thống các hệ giá trị đó thì hệ giá trị con người bao giờ cũng là hệ giá trị trung tâm”6. Đầu thế kỷ XX, hình tượng ông Đốc Quờn khiến bạn đọc hoài nhớ nỗi lòng “Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh” của phong trào Duy Tân ở Bắc và Trung Kỳ, phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ với những nhân vật như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Háo Văn và Hội Khuyến học Cần Thơ. Khai mở con đường cho đất nước, quan trọng hơn cả là khai mở dân trí. Những nhà chí sĩ yêu nước đã truyền cảm hứng khai dân trí cho Đốc Hườn, và như thế cũng là cách Đốc Hườn trả ơn cho quê hương, thực hiện di nguyện của ông ngoại và mẹ - như thế là hiếu thuận (tr.18). Ý hướng khai dân trí xuất phát từ cảm nhận thực tiễn tình hình đất nước. Điều này cho thấy tâm hồn và hoài bão của một thanh niên với quê hương. Sở dĩ có lòng với quê hương vì có hiếu thuận trong mái gia đình. Và chúng ta thấy giáo dục gia đình thực sự rất quan trọng. Bởi chính lời dạy của mẹ, của ông ngoại đã hun đúc nên cốt cách con người Lưu Được tự Hườn (tr.23). Do đó, việc Lưu Được đến với giáo dục (học Sư Phạm, mở trường học) phần báo hiếu cho gia tiên, phần để báo hiếu cho quê hương đất nước. Trong bối cảnh thời đại có nhiều thay đổi, vận mệnh đất nước thịnh suy tùy thuộc ở những người trẻ có nhân cách và hoài bão như thế!

Vài lời kết

Vừa tiểu thuyết phong tục vừa tiểu thuyết gia đình, Người gieo chữ (2024) kể lại cuộc đời ông Lưu Được tự Hườn từ khi còn tấm bé đến tuổi xế chiều, mạch truyện nổi bật với hành trình gieo trồng con chữ trên đất Bạc Liêu xưa. Trường Tiểu học Nguyễn Du không chỉ là mái trường cho học trò nghèo nuôi ước vọng học đường mà còn là hoài bão và tâm huyết cả đời của ông Đốc Quờn. Thế nên vượt lên trên câu chuyện gia đình, tác phẩm này thể hiện quá trình mở mang, khai dân trí, phát triển dân sinh trên mảnh đất này. Người gieo chữ (2024) của Phùng Quang Thuận không chỉ là hoài vọng của một người một đời mà còn là khát vọng khai dân trí của quê hương xứ sở nói chung. Tác phẩm vừa mang giá trị văn hóa lịch sử vừa thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Nổi bật hơn cả, hình tượng nhân vật ông Đốc Quờn - đó không chỉ là biểu tượng của con người có ý chí hoài bão và nỗ lực cả đời để đạt thành chí nguyện; hơn thế nữa, đó còn là biểu tượng cho đạo đức nhân cách một người thầy, đạo đức gia đình và sứ mệnh của giáo dục trong việc kiến tạo tương lai. Nhân vật ông Đốc Quờn còn như người lay động và truyền cảm hứng cho người thầy và thế hệ trẻ hôm nay ý thức sâu sắc thêm trách nhiệm của mỗi cá nhân với quê hương đất nước. Có thể nói, với Người gieo chữ, nhà văn Phùng Quang Thuận đã mang lại thêm tác phẩm đặc sắc và xúc động về con người và quê hương Bạc Liêu, làm phong phú thêm sinh cảnh văn chương Nam Bộ đương thời.

T.B.Đ
(TCSH441/11-2025)

--------------------
1 Phan Bội Châu (1926). Bài diễn thuyết của cụ Phan Bội Châu tại Trường Quốc Học ở Huế và tại Trường Đồng Khánh. Saigon: Nhà in Xưa-Nay, tr.2-3.
2 Phan Bội Châu (1926). Sđd, tr.3.
3 Phan Bội Châu (1926). Sđd, tr.3.
4 Phan Bội Châu (1932). Vấn đề giáo dục: Công dụng và Giá trị … văn chương. Giadinh: Phổ thông văn xã, tr.12-14.
5 Phan Châu Trinh (1926). Bài diễn thuyết về Đạo đức, Luân lý Đông Tây (tại Hội Việt Nam đêm 19 tháng 11 năm 1925). Saigon: Nhà in Xưa-Nay, tr.21.
6 Lương Đình Hải (2022). Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Hệ giá trị quốc gia, Hệ giá trị văn hóa, Hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, tr.19 (17-28).

 

 

Các bài đã đăng