TRẦN BĂNG KHUÊ
Bút ký
Ánh sáng liệu có phải là một hữu thể vô hình? Mọi thứ đều đã được sắp bày, được đấng tạo hóa thương ban đủ đầy những hình thể, dáng dấp, địa thế dù là sông núi hay vạn vật nhân sinh trong trời đất, vũ trụ vô cùng vô lượng này.
Tôi đang thử tìm kiếm nhiều hơn một câu chuyện về ánh sáng. Hoặc có thể là một cuộc độc thoại riêng tôi trong nỗi mơ hồ về sự tồn tại, gắn kết với những bến bờ mộng tưởng bắt đầu với dòng sông. Thứ đầu tiên mà tôi muốn nhắc đến là cỏ. Những miền cỏ ướt mềm trong đêm vì sương. Sau đó là ánh sáng. Tôi hình dung về thứ ánh sáng nửa mê nửa tỉnh, nửa thực nửa mộng. Thứ ánh sáng hiện diện như một giấc mơ lấp lánh chảy tràn trong ký ức. Và kể cả, ngay thời điểm hiện tại vào lúc bình minh lên hay hoàng hôn xuống.
Đừng biện giải ánh sáng theo một cách thông thường. Ở trong lòng phố cố xứ, tôi quan sát và thấm đẫm cuộc chơi của ánh sáng bên những bờ cỏ ướt mềm buổi sớm, chạy dọc con sông huyền nhiệm hàng trăm năm lịch sử. Đó là thứ ánh sáng kết đọng từ gam màu ngũ sắc đặc trưng quen thuộc xuất hiện trong mọi hình hài đường nét của kiến trúc, văn hóa truyền thống, và có khi chúng chỉ đơn giản lơ lửng trong không trung dưới sự biến chuyển ảo diệu của mây trời. Những tên gọi huyền hoặc từ một dòng chảy đẹp của xứ kinh kỳ, mơ mộng như miền viễn du Hương giang cuối cùng vẫn quy về một mối tình chung, một hình hài ẩn - hiện của miền sông Thơm.
Nếu chỉ đơn giản là việc chiêm ngắm hoa cỏ, hay nước chảy mây trôi, chắc hẳn chưa thể nào đủ đầy với một kẻ ham hố, đắm mê chiếm hữu mọi vẻ đẹp của đất trời, núi sông. Tôi đã thử mường tượng thêm những hình hài khác cho thỏa mãn trí tưởng của mình từ nhỏ bé đến bao la hay vô cùng rộng lớn. Thứ đầu tiên tôi muốn chạm đến, tìm kiếm sự khác biệt ấy là Ánh sáng trên dòng sông Thơm. Dòng sông là nỗi tò mò trong ký ức những ngày thơ ấu. Tôi cho phép cá thể tôi được quyền mộng về nó như việc mơ tưởng những sợi chỉ mong manh nhưng đủ để níu chặt linh hồn tuổi trẻ, cũng là thứ mà ánh sáng xuyên chiếu qua và vĩnh viễn ở lại trong cái khoảng của hư vô, thời gian không thể nào chạm đến được.
Tôi đã quan sát khá kỹ trong mỗi lần dạo bước và lặng yên dõi mắt về hướng bờ sông. Khi vừa đủ tĩnh tâm để ngắm nhìn mặt phẳng lấp lánh, sẽ thấy sự diệu kỳ của luồng ánh sáng như một giấc thơm tràn đầy mùi hương của cỏ xanh mát vào mùa hè từ bờ bắc sang bờ nam. Tôi nhớ dăm ba bận tiết trời mênh mông mây xanh xen lẫn mây trắng, tôi không kiềm chế được sự hoang dã vốn dĩ đã ngủ mê sẵn trong tâm thức mình, bởi những khát thèm in dấu chân trên đỉnh đồi của núi rừng thuở còn mộng về chàng Đam San đi bắt nữ thần mặt trời về làm vợ. Tôi đã chạy về phía Vọng Cảnh, cách thành phố chừng 7km, nằm hướng nam, một điểm thưởng ngoạn sông núi xứ mộng này tuyệt vời nhất, nơi mà xung quanh đó còn lưu lại bóng dáng, dấu vết của triều đại xưa với các điện thờ, lăng tẩm của vua Tự Đức, Minh Mạng; lăng Xương Thọ, lăng Đồng Khánh, lăng Thiệu Trị...
Ngắm thứ ánh sáng xuôi dòng từ đồi Vọng Cảnh, rồi tiếp tục chiêm ngưỡng những gam màu từ trời chiều lấp lánh bàng bạc cả mặt nước trên con sông chảy trong lòng quê cha đất tổ mới thấy ánh sáng lúc này thực là tuyệt mỹ nhường nào. Cảnh lồng trong cảnh. Giấc mơ lồng trong những giấc mơ, khi ấy lại tưởng tượng về một cuộc rượu với thơ và Nguyễn Trọng Tạo, kẻ đã từng cất lời như mộng rằng, Sông Hương hóa rượu ta đến uống/ Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say.
Chẳng phải mỗi mình tôi là kẻ mộng hay mơ khi đứng từ trên đồi Vọng Cảnh mà bao quát ôm trọn tất thảy bằng một ánh mắt nhìn về thứ ánh sáng lạ kỳ ở đây vào thời khắc bình minh lẫn hoàng hôn. Đã có lúc, tôi tự hỏi, liệu mấy ai thông thấu được trọn vẹn nỗi khát thèm phiêu lưu bằng cả tiềm thức, không chiết tửu, không men nồng mà vẫn say một cuộc tương tư đầy rung động với đất trời sông núi. Nghĩ cũng lạ kỳ, tôi là kẻ đam mê với ánh sáng, nghiện ngập việc tìm kiếm mọi góc độ của ánh sáng trong thế giới thần tiên của thiên nhiên vũ trụ. Ấy thế đôi lúc, kẻ tự tình như tôi lại chỉ có mong muốn duy nhất được hóa mình thành cô gái bé nhỏ, lặng lẽ ngồi xuống dưới một góc phố hiện đại nào đó trong kết cấu kiến trúc của các tòa nhà khi bóng tối hòa quyện vào sự mờ ảo của ánh sáng đèn đường, hay những góc công viên đầy hoa cỏ thưởng thức hương thơm kỳ diệu vô hình của dòng sông thầm thì trong đêm.
Chợt nhớ ra và lỡ chạm tay vào một vài ký ức khác của tuổi trẻ, tôi tự kể lể về những năm tháng ở trọ nhân gian, đi về sớm tối mỗi ngày trên cung đường Ngự Bình, lại hồ tưởng như nó mới cắt sượt qua mặt tôi với một đường ánh sáng ngọt lịm từ núi Ngự tràn xuống và tụ lại trên mặt sông Hương dát vàng. Đôi khi tự chất vấn mình, liệu có phải vì quá mê mải phiêu bạt trong tâm thức co cụm riêng tư mà quên đi hiện thực tươi đẹp của đất trời thiên nhiên bốn mùa ở bên ngoài? Chẳng hạn chỉ cần thức dậy vào một buổi sớm mùa xuân và đón bình minh lên khi nắng bắt đầu liếc qua khung cửa sổ, hoặc đi về phía bờ sông Thơm để thưởng thức cảm giác ánh sáng mơn man mặt nước, vuốt ve những bông hoa màu trắng - vàng nhỏ xíu chêm xen trên cỏ hay cả trên mắt môi tóc gió thôi bay của mình. Và, sau đó chọn một gốc cây lớn, đuổi theo ý nghĩ về sự tồn tại của những hiện hữu rõ rệt ở chốn nước non hữu hình này.
Những mùa thu tương tư miền cỏ ướt, tự thì thầm rồi tự hồ tưởng rằng mùa thu đã tới lâu rồi, hay chỉ mới vừa bắt đầu chạm chân trên những vệ cỏ ướt ở đôi bờ sông Thơm. Nhưng hóa ra mùa thu như một thứ tâm thức ám ảnh trong những hình dung riêng, không chịu trôi tuột đi trong dòng chảy của thực tại đắn đo và trong cả những cơn bão mùa hè vừa mới. Mùa thu xuất hiện trong tiềm thức tôi với sự hiển nhiên luôn luôn thường hằng rằng: sẽ chẳng hề có sự bắt đầu hay kết thúc. Vậy thì, mùa thu ở bờ sông Thơm - xứ sở kinh kỳ này liệu có gì khác biệt với những mùa thu nơi khác? Tự mình lại thấy mình vẫn một lòng nặng trĩu nỗi tương tư kỳ lạ như khi bắt đầu nhấc chân, vẫy tay rời xa quê xứ vậy. Nỗi hoài vọng ở đâu đó về một con sông trong giấc mơ, hay một con sông chiêm ngắm ngược lại thời gian bằng những dáng hình hiển hiện trong quá khứ, hay kể cả hiện tại của biết bao tao nhân mặc khách vẫn còn nhiều lưu luyến. Bất giác, nhớ ra vô tình hay hữu ý, khi bắt đầu với ý nghĩ về ánh sáng, bờ cỏ ướt mềm sông Thơm mình lại chạm đến những câu chữ của một Miền cỏ thơm mà kẻ đã yêu thương, đã sống, đã tan vào cát bụi ảo ảnh hư huyễn, có có không không của đất trời xứ này như đôi cánh chim câu Hoàng Phủ Ngọc Tường - Lâm Thị Mỹ Dạ.
Những mùa thu xa xôi năm nào rồi cũng sẽ đến lúc chỉ còn là ký ức về câu chuyện nhỏ thời trẻ dại, khi mùa hè bắt đầu, và thời gian trôi tuột đi bằng những tiếng ve sầu vội vã chiếm hữu không gian với trường âm thanh náo loạn vào lúc mặt trời của một ngày mới tỏa bừng ánh sáng. Dĩ nhiên, tôi biết, tôi vẫn đang còn mê đắm lắm nỗi khát thèm trong một cõi mộng mà tôi nghĩ, đó chắc chắn là khoảnh khắc thứ ánh sáng tuyệt đẹp giao hòa trên mặt nước của con sông sâu lòng đắm đuối, dưới chân cầu Trường Tiền, cầu Phú Xuân, cầu Dã Viên hay chiếc cầu mới nhất Nguyễn Hoàng. Những chiếc cầu ấy, cùng những đường ánh sáng mang kết cấu mỹ miều ôm mang lấy thành phố nhỏ với hai bờ nam - bắc sông Thơm chào đón đất trời khi chuyển mùa đổi sắc thay màu.
Bỗng dưng, tôi muốn tự mình đọc vị một câu chuyện khác. Sự im lặng của những bức tượng điêu khắc xung quanh bờ cỏ của miền sông Thơm này chẳng hạn, ngoài cảm giác đam mê đối thoại với ánh sáng, đối thoại với dòng sông khi đi trên chiếc cầu gỗ Lim. Tôi đã thử mường tượng, quan sát hòng nhìn thấu cho bằng được sự sâu lắng của sông vừa đầy đặn trầm tư mặc tưởng, vừa bộn bề như bị lãng quên trong vòng quay của thời gian tất bật bên đời. Tôi nghĩ, sông chứng kiến tất cả. Sông ôm vào lòng tất cả. Sông bao bọc yêu thương tất cả. Sông oằn mình gồng gánh đủ mọi cung bậc thiết tha của đất trời, và số phận con người hoặc chỉ là sự lặng yên trầm mặc của lịch sử - thời gian.
Nhớ lần dạo bước trong công viên Phú Xuân, tôi đã thử ngồi xuống một gốc cây, và nghiêng đôi bàn tay mình theo dáng hình của bức tượng Giấc ngủ ở Huế được khắc tạc với chất liệu đá cẩm thạch trắng và sắt không rỉ của nhà điêu khắc Paiyan Banjongklieng (Thái Lan) để tự chiêm ngắm một khoảng lặng thật sâu thật lâu trong tâm thế an bình ở xứ này.
Sau đó, tôi tiếp tục rời chân đến công viên Lý Tự Trọng, (đối diện Trường Quốc Học Huế), dừng lại nghiền ngẫm, ngắm nghía những bức tượng được tạo nên từ chất liệu sắt và đá. Tổng cộng với hơn tám mươi công trình sáng tác ở mỗi công viên bờ sông là thành quả của các nhà điêu khắc trong và ngoài nước sau mỗi lần tổ chức xong hội trại sáng tác điêu khắc quốc tế. Các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật hiện diện trong từng nếp gấp thời gian. Trong bài viết "Công viên tượng bên bờ sông Hương" trên báo VnExpress có nhắc đến tác phẩm Sự xói mòn do điêu khắc gia Hervé Bénard (Thụy Sỹ) sáng tạo, tượng cao 2,5m, rộng 1m, dày 1m, được đặt trong công viên Lý Tự Trọng, bên bờ sông. Chúng là một phần khiến tâm tư bình lặng của những con người muốn trì níu thời gian và bước chân mình chậm lại một chút nhận ra cái lẽ vô thường của cuộc đời, nhân sinh.
Có lần ngồi bên sông lặng lẽ quan sát một đường nước rẽ sóng sau đuôi chiếc thuyền mộc đánh cá cũ kỹ qua ngày của người dân áo vải sờn vai. Tôi thấy chính tôi đang lướt qua đời sông như sông vô thường lướt qua phân nửa cuộc đời tôi và những phận người lênh đênh khác. Ấy thế mà, tôi hầu như vẫn bị rơi vào cảm thức lơ đễnh chẳng hề để tâm gì đến sự vô thường của sông, của thời gian chảy theo dòng nước. Sau những cơn mưa, ánh nắng dẫn dụ tôi rời khỏi phố xôn xao để đi về phía sông. Tôi đã thử một lần bước thẳng chân trên vệ cỏ, nhưng chẳng thể, chẳng dám. Tôi phải tránh né sang khoảng đất trống trên cỏ, hoặc nhảy thẳng qua những lối bê tông, tình huống bất khả kháng, có thể nhẹ bước chân đi một chút. Tôi sợ, cỏ cũng biết đau. Và, có thể, dưới cỏ là một thế giới sinh động nhỏ bé nào khác đang tồn tại.
Đâu đó có tiếng hát cất lên trong tiềm thức mình về nỗi niềm lặng nhớ khi ở phương xa, ngơ ngác đến trào nước mắt, Tôi thương Huế, thương dòng Hương đỉnh Ngự/ Đường Nam Giao thoai thoải đến nhà em/ Tôi thương Huế Cố đô đêm trầm mặc/ Trăng nhà ai trăng chảy một dòng sông. Nghe những vọng âm trữ tình trong lời thơ của Kiều Mộng Thu và nhạc sĩ Xuân Vinh phổ này, lại nhớ một ngày đầu thu năm nào, tôi đi lướt qua cảnh quan của hai ngôi trường sơn màu đỏ sậm đối diện với bờ sông, rồi lẩm nhẩm tiếp một câu khác Nữ sinh Đồng Khánh tan trường áo trắng bay bay, ngỡ chỉ như một giấc mơ đẹp. Vậy mà nó có thực. Nó tồn tại bằng ký ức của bài thơ, câu hát mà tôi chưa kịp chạm với tới trong một giấc mơ kỳ lạ. Thực và mộng hòa vào nhau giữa sự mờ ảo của đêm và ngày, của sáng và tối ở con sông này. Dăm ba lần vòng quanh phố phường, tôi chỉ muốn đếm nhịp từng bước chân mình giữa cung đường có hai bức tường sơn cùng một tông màu cổ điển lưu dấu vết xưa trầm mặc ấy. Có hôm nắng vàng hòa sắc xanh của cỏ cây hoa lá, sắc đỏ đậm của những bức tường, sắc xanh của bầu trời mùa hè rộn rã, tôi tự cho phép mình trở lại với thuở mười lăm, mười sáu, thử hóa thân thành cô nữ sinh áo trắng, một lần mộng dưới màu hoa đỏ của mùa phượng vĩ trong sân Trường Quốc Học Huế. Ngôi trường nhiều bận đã khiến tôi ngẩn ngơ dùng dằng, chỉ vì những lấp lánh trong veo của đôi mắt tuổi học trò hay chỉ vì tà áo dài trắng bung biêng ký ức trẻ một thời đã xa? Và, phải chăng, Sự im lặng bên bờ sông Thơm là những hiện hữu chưa bao giờ vô hình?
Không gian xanh hai bên bờ sông Hương, như ôm mang hết thảy những cảnh quan kiến trúc, cùng với các Công viên Phú Xuân, Công viên Lý Tự Trọng, Công viên 3/2 nằm trên trục đường chính của thành phố là một chứng nhân sự hiện hữu của những chiều kích không - thời gian lịch sử văn hóa xưa và nay của Huế. Nếu chỉ để tìm kiếm những tụng ca mơ mộng về dòng sông Thơm như một cô gái mỹ miều có khi thành ra thừa thãi với tình yêu muôn vàn sâu nặng trong tâm thức những con người xứ Huế. Nhưng tôi vẫn muốn nhắc đến dòng Hương giang bằng một chiều kích khác, một cõi mênh mông khác sống động như một cô gái trẻ tuổi có đủ đầy mọi giác cảm vui buồn, khổ đau, tươi sáng, hoặc có khi thầm lặng như một vị quan sát viên trăm tuổi râu tóc bạc phơ chiêm ngắm ngược lại cõi trần thế rộn rã hay chầm chậm ngựa xe xuôi ngược.
Một dạo khác, theo thói quen của người thích quan sát từng trạng thái chuyển biến đổi sắc thay màu của dòng sông, tôi thấy một đôi bạn nhỏ nghiêng mình đọc sách dưới nắng ở bên góc Bia Quốc Học. Đó là hiện tại. Một vẻ đẹp lặng lẽ, nhưng thơ và mộng của tuổi học trò đúng kiểu Huế. Lấy hình ảnh ấy để soi chiếu với quá khứ, để biết rằng, Bia Quốc Học không chỉ là một không gian kiến trúc đơn thuần. Nơi đây, đã tái hiện biết bao nhiêu sự kiện văn hóa, lịch sử như một sự gắn kết hài hòa giữa đời sống hiện thực và tâm hồn của người xứ Huế. Bia Quốc Học (Đài tưởng niệm binh sĩ Pháp và Việt Nam thiệt mạng khi giúp nước Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất), được xây dựng từ những năm 1920, với hình dáng là một bình phong lớn, có hai tầng, có mái che, xây trên nền hai bậc thềm. Chính giữa có hình huy chương treo trên một tấm kim khánh. Thân và bệ đài được trang trí theo các mô típ rồng, lân, chữ thọ (壽) cách điệu cùng đề tài khác như tứ quý (mai, lan, cúc, trúc), kỷ hà. Các họa tiết trang trí, kiến trúc, điêu khắc đều mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Một không gian hài hòa sắc màu của những hiện hữu giữa quá khứ và hiện tại ở bên bờ sông Hương.
Lang thang suốt những tháng năm trẻ tuổi, vô tình hay hữu ý mà trở thành người chứng kiến sự đổi thay mỗi ngày ở bờ sông Thơm này, rồi nhận thấy những khối hình bằng chất liệu khác, với tôi dường như chúng cũng đang có một câu chuyện riêng muốn kể. Chẳng hạn bức tượng khắc tạc từ chất liệu đá rõ mặt anh hào như tượng Nhà yêu nước Phan Bội Châu được ghép bằng 13 phiến đồng nặng 7 tấn. Tượng có thông số chiều cao 4,5m, dày 2,5m, rộng 3,5m, đặt ven bờ sông, gần cầu Trường Tiền, cùng với tượng Cô gái Việt Nam đặt trong công viên Lý Tự Trọng, bên dòng sông Hương trước mặt trường THPT Hai Bà Trưng, đều do họa sỹ, điêu khắc gia Lê Thành Nhơn đúc và tặng cho Huế.
Nghệ thuật điêu khắc xung quanh đôi bờ sông Hương gắn bó chặt chẽ với công trình kiến trúc cổ xưa tạo nên nhiều ý nghĩa tương liên kết nối. Những tác phẩm điêu khắc thực sự mang lại nhiều cảm xúc thẩm mỹ, tạo ấn tượng với khách phương xa khi đến Huế. Một bức tượng khác, khiến tôi dừng lại thật lâu trong cuộc dạo bước như kẻ đi lạc, thế giới riêng của tôi chìm trong sự im lặng của những câu chuyện bên bờ sông Thơm. Ngắm nghía bức tượng một cô gái có mái tóc dài màu xanh huyễn ảo, tôi vội nghĩ, chẳng hiểu, khi tạo hình cho bức điêu khắc này, nhà văn, họa sỹ, điêu khắc gia Trần Luân Tín đã trầm tư những gì? Trùng hợp làm sao với ý nghĩ của tôi về tên tác phẩm, thể nào tác giả lại chẳng có dăm ba ký tự đánh dấu, bởi phía dưới bức tượng vẫn còn những nét khắc ngang dọc mờ mờ trên đá dòng chữ, Tuổi của sông Hương.
Sông Hương liệu có tuổi nữa chăng? Một con sông đã lặng yên chảy trong lòng lịch sử từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ mộng đến thực, từ lặng lẽ trầm sâu cho đến cồn cào dậy sóng. Và, hình như sông vẫn chưa bao giờ già đi thì phải? Tóc của sông hẳn sẽ mãi xanh như màu của bức tượng điêu khắc hình ảnh của người con gái thời xuân sắc. Nhưng tóc của bao nhiêu kiếp người thì đã bạc trắng hoặc hóa thành mây khói hư vô.
Trở lại với câu chuyện về ánh sáng. Tôi thực là một kiểu người mê ánh sáng đến tuyệt độ. Tôi luôn bị rơi vào cảm giác khao khát khám phá những miền ánh sáng, kiếm tìm từng mẩu vụn ánh sáng như sợi chỉ hòa mình cùng thế giới của cỏ cây hoa lá. Những ngày ánh sáng reo cười bên bờ con sông Thơm, tôi đã tìm thấy chứng tích của ánh sáng, ấy là nụ cười trên mặt tôi, nụ hoa sóng trên mặt sông lấp lánh tươi đẹp, hoặc xao động với một ít gió. Tôi bị thứ ánh sáng đó đưa dẫn vào cõi mộng du kỳ ảo của một thế giới tưởng tượng khác. Nó liệu có phải là một cảm giác đê mê đắm đuối mà con sông tạo ra cho tôi những ngày đầy nắng? Tôi chợt bận lòng tò mò và tự lý giải việc người đàn ông được sinh ra từ làng biển của xứ Huế như cha tôi, chọn dòng sông ấy như một thứ tình yêu bùng cháy âm ỉ giấu kín để đặt tên cho đứa con gái đầu lòng.
Ngược dòng ký ức xanh. Trước cổng Trường Đại học Sư phạm, đối diện là bờ sông, vệ cỏ nơi bắt đầu tuổi trẻ của tôi. Thử quan sát thêm những bức tượng, những hình hài trong khu vườn phủ màu rêu úa, mà trước đó tôi đã vội vã lướt qua nó. Khoảng hai mươi năm sau, tôi lại muốn đi trên những vệ cỏ quen này. Tôi trở về với khu vườn im lặng ấy để tìm kiếm một vài vệt thời gian như nước sông Hương ngấm ngầm tràn bờ mùa mưa lũ rồi cũng ngấm ngầm thấm vào từng gốc cây, từng bờ cỏ, từng bức tượng đá đang dần mờ nhòe nét khắc.
Những cơn mưa quen thuộc trái mùa bất chợt, bị tôi bắt gặp vẫn đi lang thang như một gã tình nhân thủy chung của cô gái sông Hương. Hệt như cặp đôi bức tượng điêu khắc đá màu xanh có tên Tắm mưa cao 1,95m, rộng 2m của điêu khắc gia Nguyễn Hoàng Ánh, tác phẩm được ra đời tại hội trại sáng tác quốc tế năm 2002, đặt trưng bày trong Công viên 3/2. Thời gian bức tượng điêu khắc này xuất hiện và tồn tại hóa ra cũng có duyên với tôi lắm. Nó có mặt ở đó đã tròn hai mươi năm, vừa đủ cho tôi cộng trừ số tuổi của mình năm đầu tiên bước chân chập chững đến cổng Trường Đại học Sư phạm và gắn bó với Huế đến tận bây giờ.
Nhân duyên là một sự sắp đặt kỳ lạ, bức tượng đá có tên gọi Khúc ru lullaby trong Công viên 3/2 của tác giả Bùi Nam cũng khiến tôi giật mình thảng thốt. Khoảng trời ấu thơ từng giấu kín những thăm thẳm trong tôi dường như đang bị chạm đến. Chìm đắm trong những cung bậc riêng tư, nhờ giai điệu của khúc ru ấy ủi an thương xót. Hai mươi năm sau tôi mới biết nó là một khúc ru ấm áp không bao giờ bị thời gian cào xước như hiện thực. Khi dạo bước quanh những công viên xanh, hẳn phải tìm kiếm cho đủ sự lặng im dưới những tán cây. Đó chính là sự tồn tại của các tác phẩm điêu khắc đá. Ở phía bên kia bờ sông Hương, trên trục đường Trịnh Công Sơn, khu công viên mang tên ông cũng vừa mới xuất hiện dáng hình của một người đàn ông trầm ngâm tư lự “ở trọ” thiên thu trong cõi vô thường của đất trời, sông núi xứ Huế. Tượng nghệ thuật cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đúc bằng chất liệu đồng, cao 1,7m, rộng 1,6m, dài 2,3m, và nặng 500kg, do điêu khắc gia Trương Đình Quế sáng tạo cùng công ty xây dựng kinh doanh nhà Gia Hòa tài trợ, tặng cho Huế.
Cỏ ướt miền sông Thơm dưới những mùa ánh sáng hữu hình, thiên nhiên là một hữu thể tuyệt đẹp, kỳ diệu trong vũ trụ này. May mắn thay, Huế được ưu đãi ban tặng cho một khối hình hài với kết cấu non non nước nước hữu tình, với những tòa thành kiến trúc có bề dày văn hóa lịch sử. Dòng sông Thơm là một chứng nhân “không có tuổi” ôm ấp bao bọc những câu chuyện lớn của đất trời xứ này. Tôi lại mơ mộng về những bờ cỏ xanh mượt, mơ mộng thứ ánh sáng không có tuổi của thời gian lặp đi lặp lại, từ lúc bắt đầu một ngày cho đến khi kết thúc. Ánh sáng mùa hè, đã và đang quét đều từng nhát cọ vô hình của đất trời lên từng cành cây, ngọn cỏ, rồi ẩn nấp trong từng nét chạm trổ, dừng lại ở đó, dù chỉ là một đôi mắt dưới hình hài tượng đá. Tôi tìm thấy tôi trong không gian hữu thể ấy. Và, tôi cũng tìm thấy một nhánh thạch xương bồ thơm lấp lánh, huyễn ảo trong giấc mộng còn đẫm hương của đêm qua.
Cỏ đã ướt bằng một vòng lặp của thời gian. Khi sông vừa mới bắt đầu thức giấc, đón bình minh sớm nay thôi. Hôm mai, cơn mưa đất trời xứ mù sương lâu lắm của năm cũ mà tôi còn lưu lại trong ký ức dường như đã chiếm hữu hết mọi luồng ánh sáng tươi tắn rạng rỡ bằng tiếng rả rích đêm ngày quen thuộc ở miền sông Thơm. Mọi sự chuyển biến không hẳn vội vã, nhưng vừa đủ để nhận ra hay mơ hồ hình dung lại mùa hoa ngô đồng rộ nở màu hồng phấn ở Nghinh Lương Đình, hay trong Đại Nội cổ kính, cùng với sắc vàng của điệp ngập lối vương vấn trên những vỉa hè. Ánh sáng trên mặt nước sông sóng sánh, lấp lánh hơn trong một kết nối hoàn mỹ bằng vũ điệu xoay tròn giữa các gam màu ngũ sắc của mặt trời buổi hoàng hôn quen thuộc hiện hữu trên mắt môi người gần kẻ xa chầm chậm thả bước dưới những cung đường xanh, trên cả những nhịp cầu mới và cũ của dòng sông Thơm, như một cách gọi mê đắm trong tiềm thức về nó, về con sông làm nao lòng bao nhiêu kẻ tao nhân mặc khách.
Thử một lần dạo bước ngắm vầng trăng đêm giữa tháng bên bờ cỏ thơm ướt sương, nghe gió thở nhẹ bên tai mà hồ tưởng như tiếng ai vọng, ai ngâm vang câu thơ của người xưa chưa bao giờ cũ, mênh mang trong gió: “Hương giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu”.
T.B.K
(TCSH440/10-2025)