NGUYỄN KHOA DIỆU HÀ
1.
Mặt trời mùa hè như dội lửa xuống trảng cát, mới có chín, mười giờ sáng mà nắng nóng như rang. Cả một vùng cát trắng xóa im lìm. Cứ kiểu này kéo dài chừng tháng nữa thì lúa má, hoa màu nào mà chịu cho nổi. Đất cát như cũng khô kiệt rồi, hơi nóng từ trảng cát cứ phà vào mặt người ràn rạt.
Mụ Thương ngồi dưới gốc cây dương liễu nhìn ánh nắng chói chang ngoài trảng cát. Làm nghề nông nhìn nắng hạn đau lòng hơn cả mưa lụt. Trong màn nước bạc, cái cây ngọn cỏ dù có bị bứt gốc trôi đi cũng còn chút màu xanh, chứ nắng hạn thì đứng im chịu trận, héo rũ ra từng ngày, vàng vọt rồi chết úa trên đồng. Sáng ni mụ Thương nói với thằng cháu nội:
- Con đi học chở mệ qua chỗ am Thần Nông, mệ đi thăm mộ ông bà cố, gần đến ngày kỵ bà cố con rồi.
Thằng cháu nội đã quá quen với chuyện này, chỉ cười:
- Mệ nhớ bà cố rồi phải không?
- Mệ đi thăm kẻo vài bữa nữa họ xây cái chỗ chơi chi đó, họ rào cái trảng cát thì mệ không đi được.
Nghĩa địa của làng là trảng cát rộng nằm sau độn cát cao ngăn biển với làng. Dọc theo bức tường cát ấy là rừng dương, nghe nói mấy gốc dương già cỗi, thân xù xì ở đó được trồng cách đây hơn trăm năm, do một vị quan khi về đây nhậm chức đã cho trồng dọc các làng ven biển nhằm ngăn gió cát, mưa bão, bảo vệ làng mạc bên trong. Băng qua cánh đồng cát mênh mông là đến làng. Trên trảng cát trắng lấp lóa ấy, từ trước đến giờ chỉ lác đác ít lùm bụi, dây leo trùm lên nhìn xa như những cái nấm tròn, là có chút màu xanh, còn lại xơ xác những bụi cỏ lông chông cháy khô sau mỗi mùa hè, sống lại như có phép màu khi mùa mưa đến và lại cháy vàng khô trong mùa hè tiếp theo. Cả chục cái làng ven biển này, ai chết cũng đều chôn ở nghĩa địa làng, những nấm mộ cát được vun to bằng hai ba cái nong lớn. Rồi gió thổi cát bay, ngôi mộ nhỏ dần. Hàng năm vào khoảng tháng Chạp, làng có ngày chạp mộ. Nhà nào có con cháu thì vun lại nấm mộ, những ngôi mộ vô chủ thì làng chạp nhưng cũng không tránh được nhiều ngôi mộ qua năm tháng, nấm cát nhỏ dần và biến mất giữa trảng cát mênh mông.
Ngày mạ chồng mụ Thương mất, lúc ấy mụ ngoài hai mươi tuổi, mới về làm dâu được ba năm. Hai đứa con trai đầu là sinh năm một, mụ vừa cấn bầu đứa thứ ba thì mạ chồng bị cảm thương hàn. Bà nằm một tháng, tóc rụng xác xơ. Hôm đưa bà ra đồng, mụ Thương khóc không thấy đường mà đi. Nước mắt không biết từ đâu tuôn ra như mưa, không dừng lại được. Lần mạ ruột mất, mụ vừa mới ra đời được ba ngày không hiểu hết nỗi đau nên khi mạ chồng mất, mụ khóc cho cả hai người mạ. Người lạ đi ngang qua hỏi: “Con gái hay con dâu mà khóc sưng cả mắt tội chưa?”, có người trả lời: “Con dâu, nhìn cái mũ mấn với áo tang là biết liền”. Từ nghĩa địa làng trở về, mụ Thương bước chân nặng nề, lòng buồn vô hạn, từ đây mụ không còn người để trò chuyện, đồng cảnh cam chịu mỗi khi hai người đàn ông trong nhà, là cha chồng mụ và chồng mụ, lên tiếng.
Mụ Thương không nằm mơ mạ chồng một lần nào. Lúc nào buồn là mụ đi ra nghĩa địa làng thắp hương cho bà. Hồi ấy, nghĩa địa làng rất hiếm mộ xây, phần lớn là những nấm mộ tròn, nằm thênh thang giữa trảng cát trắng, không xây tường rào như bây giờ, chỉ có những bụi dứa dại làm cái việc giữ ranh giới. Người đi làm đồng, đi chợ thường đi tắt qua nghĩa địa mà chẳng ai thấy sợ, con nít trong làng còn chạy chơi, đặt bẫy chim ở những lùm bụi gần đó. Mụ Thương ra thắp hương cho người mạ chồng hiền hậu, bà cũng là người vợ một đời sợ chồng. Ngồi bên mộ mạ chồng, nhìn khói nhang bay lên, càng nghĩ càng tủi, nước mắt mụ Thương chảy dài, mụ để cho những ấm ức, cô đơn rơi từng giọt xuống cát. Có lần mụ cảm nhận như có bàn tay ai vỗ sau lưng, kéo mụ đứng dậy. Hôm người làng to nhỏ chuyện thợ mộc cả Rạng, chồng mụ, đi lại với một người quá lứa lỡ thì ở làng bên, mụ Thương nghe nhói ở tim một cái, rồi thôi. Mụ cố tức giận để xem cơn ghen ra sao nhưng lạ kỳ là cả trái tim và cái đầu mụ đều im re. Người trong làng kể, hôm trước ngày cưới, anh Rạng tuyên bố với đám bạn thợ nhà rường làm công cho cha mình, “Thằng Rạng ni cưới vợ là do ông già bắt cưới chứ không đời nào sợ vợ” và chồng mụ đã sống quá cả lời nói lúc cao hứng ấy nữa.
2.
Lúc ấy Thương mười bảy tuổi, còn anh Rạng hai mươi. Hai người thành duyên là nhờ buổi chạp làng. Cha Thương và cha anh Rạng, ông cả Sáng, cùng đi chạp, hai người cùng ngồi chiếu trên vì có con trai đầu lòng, chén chú chén anh rồi hứa gả con cho nhau. Năm sau, nhà trai xin rước dâu. Mùa gặt rơm phơi đầy đường, đám cưới đi trên đường làng mát rượi, Thương đi guốc không quen, lại thêm vướng rơm càng sợ ngã nhưng lòng thấy vui. Lấy chồng thì có gì đâu mà sợ. Con gái làng biển, mười sáu, mười bảy tuổi là lấy chồng gần hết, ai qua hai mươi là cha mạ trong nhà sốt ruột rồi. Thương lấy chồng đúng kỳ như cái bông vừa hé nở. Thời ấy vẫn còn dựng vợ gả chồng qua mai mối hoặc do cha mạ sắp đặt, Thương và chồng chưa có dịp ngồi riêng với nhau để chuyện trò, Thương còn chưa nghe quen giọng nói của chồng. Đoàn rước dâu đi trên đường làng, qua một vài cổng ngõ là có nhóm nhỏ người lớn và con nít đứng xem. Con nít chỉ trỏ cô dâu, chú rể, người lớn kín đáo cười ý nhị, Thương đỏ bừng hai má, lúc ấy mới nhớ ra hôm nay mình là cô dâu, được đánh phấn, tô son, đẹp nhất, nổi nhất, mọi người đang ngắm nhìn mình. Thương liếc nhìn anh Rạng đi bên cạnh, thấy dáng bộ anh nghiêm trang quá, nụ cười trên môi Thương bỗng dừng lại, sượng sùng, thấy mình sao vô duyên, hớn hở hớ hênh. Một cơn gió thổi qua, mùi cây cỏ, mùi ruộng đồng quen thuộc bao quanh làm Thương phấn chấn trở lại, Thương cúi xuống gỡ rơm vướng ở đôi guốc gỗ, nghe giọng chồng nói từng tiếng nhỏ: “Về nhà tui thì đừng có õng ẹo như tiểu thư”. Thương ngước mắt nhìn lên, bắt gặp ánh mắt anh Rạng nhìn xuống, chưa bao giờ Thương nhìn khuôn mặt anh Rạng gần đến thế. Đó là một khuôn mặt xương xương, quai hàm bạnh ra, hình như góc nào cũng nhọn, cái cằm nhọn, xương gò má nhọn, đôi môi mỏng hơi thâm cũng mím nhọn, hai đầu lông mày rậm gần chạm nhau ở ấn đường tạo thành một đường thẳng trên khuôn mặt, toát lên một sự cứng rắn, khó gần, nhưng trái tim thiếu nữ của Thương đang vui nên không nghĩ ngợi nhiều, Thương bước chậm như lời bà mối dặn: “Rước dâu thì đi chầm chậm nghe con, không phải đi chợ đi đò mà rảo cho nhanh”. Có lẽ đó cũng là lần cuối cùng Thương đi chầm chậm trên đường mà lòng hân hoan như gió mới.
Sau khi sinh đứa con đầu lòng, Thương thấm cái mùi vị nghèo nàn của đời sống vợ chồng, không chỉ nghèo tiền bạc, nghèo yêu thương mà còn nghèo cả tiếng cười, ánh mắt. Hiếm khi anh Rạng nói cái gì mà nhìn thẳng vào mắt vợ khiến Thương thấy mình như là người bên lề, lắm lúc Thương mong chồng cười với mình một cái cho tươi vui như chồng mấy người bạn trong xóm nhưng anh Rạng không cười với Thương. Anh cười ha hả với bạn bè, anh pha trò khi ngồi lát gạch cho căn nhà rường làm thợ cười nghiêng ngả nhưng về đến nhà là khuôn mặt lúc nào cũng lạnh tưng. Mà mấy khi anh về nhà đâu. Thương muốn yêu thương chồng nhưng anh Rạng không thèm nhìn vào Thương, anh cao ngạo khi thấy Thương khổ sở vì thương anh, anh lạnh lùng để “dạy vợ từ thuở mẹ cha đưa về”. Thương mệt mỏi, dần dần dành tình thương cho con cái, cho con gà, con vịt, cho cây rau, cây ớt trong vườn. Thương quên buồn khi anh Rạng vắng nhà.
Thiên nhiên cũng có điều kỳ diệu lắm, cùng là cát nhưng cuộc đất cát làng Thương lại hợp với con gái. Chỉ cách cái độn cát mà con gái làng Thương da trắng hồng, càng ra nắng càng hồng, vóc dáng eo thon, mông nở, con gái làng bên lại có làn da bánh mật. Có người nói vui tại vì con nít làng này đẻ ra trên cát nên trắng như cát. Người dân làng Thương sống cùng cát từ thuở lọt lòng mà. Mạ chồng Thương kể có nhiều bà mạ ham làm đẻ rơi con trên ruộng dưa, khi bà mụ chạy tới thì đứa trẻ chân đã chòi trong cát; ngay như anh Rạng chồng Thương, bà mụ cắt dây rốn bằng cây dao được lau bằng một bụm rượu trắng, cán dao vẫn còn dính cát. Thế mà trời thương sao ấy, con nít làng này không đứa nào bị làm sao cả, đứa nào cũng tròn thùi lụi như củ khoai, củ sắn, đứa nào cũng lấm lem đất cát nhưng qua tuổi dậy thì là trổ mã hẳn, đặc biệt là con gái, khỏe mạnh và có làn da trắng trẻo như bông hoa huệ.
Về làm dâu, bữa ăn đầu tiên Thương ngạc nhiên khi mâm cơm ngon lành được bưng lên nhà trên, đặt trên chiếc sập gụ ở gian bên phải để dành riêng cho cha chồng và anh Rạng, còn đàn bà con nít ăn dưới bếp. Cũng vì chữ “dùng” hay “ăn” mà Thương bị chồng dạy dỗ: “Nhà ni là phải nói mời cơm, dùng cơm nghe!” Thương khóc ròng. Chiều ấy Thương gánh lúa qua xay nhờ ở nhà mệ Cả Tú, mệ thở dài: “Cha chồng con và thằng Rạng thích nói “dùng cơm” thì con nói “dùng cơm”, chịu nhịn chút cho yên thân con ơi”. Rồi mệ không kìm được: “Báu chi anh thợ mộc mà hoạnh hoẹ vợ con, bày đặt ra vẻ ta đây”.
Cha chồng Thương nổi tiếng tay nghề giỏi và khó tính. Hồi ấy, vùng ven biển này có mấy ai được học chữ. Con trai lớn lên là đi biển, con gái lớn lên là làm vườn, làm ruộng. Trường làng chỉ có ngang bậc tiểu học, muốn học lên cao nữa phải đi xa hơn, chỉ nhà khá giả mới có cơm đùm gạo bới cho con đi học. Cha chồng Thương được người bà con làm thợ mộc cung đình đưa lên Huế cho học nghề. Theo nghề được mười năm thì đội thợ tan rã, vua Bảo Đại thoái vị. Hơn hai mươi tuổi, ông trở về làng mang theo cái “mác” thợ làm nhà rường cung đình, là thợ cả nên được gọi là ông cả Sáng, anh Rạng chồng Thương theo học nghề cha, sau cũng được người làng gọi là anh cả Rạng (như kiểu tập ấm con quan). Về tay nghề mộc thì cả làng đều nể cha con ông cả Rạng nhưng người ta cũng nhỏ to “Cha nào con nấy, hay nói lời cay nghiệt, tính khó ưa”. Ngày rước dâu về, dọn mời bà con ăn uống xong, Thương và hai người bà con lớn tuổi ngồi rửa một đống chén bát nghênh ngang, nghe bên hàng xóm vọng sang giọng hò ru con:
“À ơi, làm vợ thợ cả, nằm ngả mà ăn
Làm vợ thợ săn, rừng thiêng nước độc
Làm vợ thợ mộc, đục đẽo suốt ngày
Về làm thợ cày, có gạo con ăn”.
Mỗi lần nhớ lại câu hò ấy, Thương tủi thân rơm rớm nước mắt. Từ ngày có thêm Thương về, mạ chồng bớt được chút chân tay. Hai người đàn bà gánh hết việc đồng áng, cơm nước, heo gà trong nhà.
3.
Anh Rạng chồng Thương có tay nghề giỏi như cha. Nhà ai làm mà thuê được cả hai cha con anh Rạng là chủ nhà mừng lắm. Ông cả Sáng thì kỹ càng trong việc đo đạc, chọn gỗ, chọn hướng nhà, cẩn thận đến khó tính. Sau đợt đau quai bị kéo dài, sốt tưởng chết, càng ngày ông càng khó tính, mỉa mai cay nghiệt với thợ. Anh Rạng trẻ tuổi hơn, hay tìm tòi, sáng kiến, anh theo quyển sách mỹ thuật cung đình được người bà con tặng mà vẽ hoa văn, họa tiết trang trí trên các cấu kiện gỗ nên giữ được nét đẹp truyền thống của nhà rường Huế. Những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất, nhà rường Huế rơi vào thời khủng hoảng, nhiều nhà túng thiếu dỡ nhà rường bán dần dần, họa hoằn lắm mới có người đến thuê lợp lại mái ngói hay làm lại cái cột, cái kèo bị mối mọt. Thợ làm nhà rường ở Huế thất nghiệp. Thỉnh thoảng có người ở tỉnh ngoài muốn dựng lại nếp nhà rường xưa, họ tìm về Huế, được chỉ đến nhà anh Rạng. Thế là cả kíp thợ lên đường. Anh Rạng làm nhà cho người ta, thợ làng về hết nhưng anh chưa về, anh ăn chơi cho hết tiền rồi mới về. Có lần anh Rạng đi nửa năm, thấy anh về Thương mừng lắm nhưng chưa kịp nhìn kỹ mặt chồng thì anh bắt Thương đưa tiền. Chiều đó, Thương gánh đôi thùng chạy đến khóc trên mộ mạ chồng. Thương không biết là mình đã nằm ở đó bao lâu, mơ màng Thương thấy mạ chồng cầm tay dẫn đi về nhà. Trước khi đi khuất vào những luống khoai lang vừa mới cắm ngọn, bà bốc một nắm cát lớn bỏ vào tay Thương, một cơn gió thổi tới, cát bay túi bụi vào mặt, Thương nhắm mắt, lắc mạnh đầu. Giật mình mở mắt, Thương thấy trong tay mình là một vốc cát đầy, cát chảy thành dòng qua kẽ ngón tay. Bữa ấy trăng sáng ghê lắm, thấy rõ những hạt cát trắng tinh chảy từ lòng bàn tay bắt đầu chai sần của Thương. Gió vẫn thổi qua trảng cát, ngọn gió đêm trên nghĩa địa với Thương lúc ấy không mang vẻ hoang lạnh mà nghe có mùi mằn mặn, ấm áp của đầm Hà Trung, của biển xa. Thương vừa được mạ chồng an ủi, dẫu xa xôi cách biệt mà vẫn thấy gần gũi vô cùng. Trong sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối, Thương nhận ra vẫn còn ngọn gió này, hàng ức triệu hạt cát này gần gũi, ôm ấp, vỗ về Thương. Như được khai ngộ, Thương thấy bình tâm, lòng nhẹ hẫng, không còn tủi thân, tức tối người chồng thờ ơ, vô tâm đến lạnh lùng với vợ con. Không còn ấm ức người cha chồng cay nghiệt, hay lý sự, bắt bẻ con dâu. Thương đã rải biết bao nỗi buồn vào cát và cát đã đón nhận tất cả nhưng có lẽ từ nay không còn cảnh khóc thầm ấy nữa. Thương đứng dậy, ngơ ngác tìm đôi thùng nằm lăn lóc dưới rãnh đất vồng rau khoai, gánh đôi thùng không đi về nhà. Trên cánh đồng này, có bao nhiêu hạt cát chắc cũng có bấy nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt của Thương rơi xuống. Thương giấu nỗi khát khao của người vợ trẻ vào những lát cuốc phập sâu, nén lại cơn sóng lòng chảy tràn bờ trên khuôn ngực vồng lên như hai trái núi nhỏ, rắn chắc. Những đêm trăng, người làng đi làm đồng nhiều lắm, gần như cả làng rủ nhau đi làm đêm, người ta hò hát vui vẻ, riêng Thương cặm cụi làm. Ngày qua ngày Thương trút hết phần tươi mát của đàn bà tuổi ba mươi trên cánh đồng từ sáng sớm tinh mơ cho đến hoàng hôn tắt nắng. Mỗi đứa con ra đời Thương càng đầu tắt mặt tối trong khi anh Rạng thì cứ phơi phới như trai chưa vợ. Thương vắt sức trên cánh đồng từng ngày cho đến khi như bụi cỏ dại giữa trảng cát mênh mông, khô cháy bên ngoài và cạn kiệt bên trong.
4.
Đưa mạ ra đồng xong là anh Rạng nhận công trình dựng một ngôi nhà rường cổ ở Quảng Nam, ông chủ muốn mở một quán cà phê theo phong cách kiến trúc cung đình Huế. Thương muốn anh tìm việc ở gần nhà nhưng chưa kịp cất lời thì anh Rạng đã lấn át: “Chừ người ta dỡ nhà rường ra bán chứ có ai làm nhà rường mới. Đây là chuyện nghề nghiệp. Tau đi làm là việc của tau”.
Thương im lặng, Thương đã nhìn thấy sự háo hức của anh Rạng khi kêu nhóm bạn thợ đến nhà bàn bạc. Thợ làng nhận lời liền, chẳng ai giấu nỗi mừng vui được dịp đi ra khỏi làng, được nếm thứ rượu nổi tiếng “Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm/ Rượu hồng đào chưa nhấm đã say”, cả nhóm cười nói ồn ào với những mơ tưởng về chuyến xa nhà.
Anh Rạng vừa đi thì ngày sau cha chồng Thương đứng ở cửa hông nối giữa nhà trên và nhà dưới:
- Bữa ni bây ra ăn riêng đi nghe.
- Dạ ba.
Thương “dạ” theo thói quen từ ngày về làm dâu. Trong nhà này, ông cả Sáng nói là tất cả đều “Dạ”, không được hỏi lại chứ nói gì cãi lại. Trưa ấy, theo thói quen, Thương bưng mâm cơm lên mời cha chồng, ông mím môi:
- Tau đã nói bây ăn riêng rồi mà.
Thương giật mình, đứng lặng rồi bỗng nước mắt chảy dài, luýnh quýnh bưng mâm cơm xuống bếp, không hiểu đã làm gì sai. Thương bỗng sợ thật sự, trước đây còn mạ chồng, bà hứng hết những cay nghiệt vô cớ của ông. Bây giờ tất cả chuyển qua Thương sao. Trưa ấy, Thương không nuốt nổi chén cơm.
Cha chồng cột chặt mấy phuy lúa, khoai khô, sắn khô, Thương phải cắp thúng về nhà cha mình mượn lúa. Vừa mới vào nhà, chưa kịp mở miệng thì cha đã cầm ngay hai cái thúng vào đong đầy lúa cho Thương gánh về.
Thương làm việc bạc mặt ngoài đồng. Làng ven biển, đất ruộng làng cát chia làm mấy loại, loại tốt nhất, ở sâu giữa làng trồng lúa, một năm cũng chỉ trồng được một vụ. Hạt lúa có được vùng nước mặn ven biển này thật trần ai. Doi đất pha nhiều cát hơn ở cạnh nghĩa địa làng, trồng rau, đậu, cà, ớt, cây sống được thì người cũng mướt mồ hôi. Thương nhẩm tính, vụ màu này phải cố gắng trồng nhiều khoai lang, thu hoạch xong là mùa mưa bão tới, lúc ấy cũng đến ngày Thương sinh con. Nhìn những ngọn khoai lang vừa mới trồng héo rũ ngọn xuống vì nắng nóng, đêm nào Thương cũng đi gánh nước tưới. Vùng cát thường có những ao nước mội, nước cạn nhưng không bao giờ hết. Đi bộ trên cát đã mệt, gánh nước trên cát càng mệt hơn, để múc được gánh nước mội phải đi theo đường xoắn trôn ốc mà lên, cát xìa muốn ngã dúi. Bụng bầu ngày càng lớn, nhiều lúc cực quá, mệt quá, Thương ngồi trên cát mà khóc tức tưởi. Thợ làng đi làm, tháng trước tháng sau là có người về thăm nhà, anh Rạng chồng Thương đi thẳng, chẳng có một lời nhờ nhắn thăm vợ con.
Cháy da với ruộng khoai lang là lương thực cho lần sinh thứ ba, thu hoạch xong thì Thương cũng trở dạ. Mệ Thẻo, người đàn bà chuyên đỡ đẻ cho phụ nữ mười cái làng cát ven biển này, lấy khăn quấn gọn gàng em bé mới sinh rồi bồng đến cho Thương nhìn: “Con gái, hai cân bảy, hai cân tám đây hí”. Mệ Thẻo cũng là người trong làng nên biết anh Rạng đi làm ăn xa, mệ nhắc Thương: “Đã nhắn tin cho cha hắn chưa. Hai trai đầu chừ con gái là nhất luôn”. Thương thở dài không nói, lòng lo cơm gạo hơn là nghĩ đến người chồng lang bạt.
Mưa càng ngày càng lớn, Thương nằm mà sốt ruột. Tháng Mười âm lịch tưởng đã hết lụt, chẳng lẽ “Ông tha mà bà chẳng tha/ Bà làm cái lụt hai ba tháng mười”. Lúc mệ Thẻo bưng tô cơm nóng hổi vào buồng, Thương lo lắng:
- Mệ Thẻo nì, trời ni có lụt không mệ?
- Ngó bộ ôn làm cái lụt nữa mới thôi con ơi. Mà răng thằng Rạng chưa về? Rứa mi đã nhắn hắn chưa?
- Dạ, con nhờ người nhắn rồi đó mệ.
- Này, mệ thấy gạo gần hết rồi đó nghe. Mưa gió ni coi mà đi xay lúa để dành.
Thau than mệ Thẻo vùi tro đặt dưới giường đã tàn, con bé đái dầm ướt lạnh quờ tìm vú mẹ, Thương thức giấc đổi chỗ cho con, giật mình nghe tiếng nước chảy ì oạp bên hông nhà. Thương vặn to cây đèn dầu, bên ngoài trời vẫn còn tối, tiếng nước chảy nghe càng rõ ràng hơn, may là gian bếp này vừa được bồi thêm một nền đất nên nước vẫn chưa vào được nhưng nghe tiếng nước chảy mạnh kiểu ni dễ là sáng mai nước ngập nhà bếp rồi.
Trời vừa hưng hửng sáng đã nghe xung quanh tiếng ồn ào kêu gọi kê dọn đồ chống lụt. Trong nhà, căn nhà trên là nơi cha chồng ở, nền gạch xây cao chưa có trận lụt nào nước vào được, chỉ lo căn nhà bếp nơi mẹ con Thương đang nằm.
Nước đã vào trước sân, ngoài đường chắc cũng ngang gối. Nhớ lời mệ Thẻo, Thương thò tay vào thạp gạo, còn nấu được cỡ vài ngày. Mấy phuy lúa của cha chồng dây chằng vẫn cột kỹ, mà lúa ấy cũng là mồ hôi Thương cấy trồng, nay cha chồng lệnh ăn riêng, ông lấy luôn mấy bồ lúa.
Thương quờ quạng tìm bông dém hai tai thật kỹ, mặc thêm chiếc áo len sờn tay, run rẩy cắp cái thúng đi ra sân. Chân vừa chạm nước, một luồng hơi lạnh chạy từ bàn chân lên sống lưng rồi lan ra toàn thân làm Thương ớn lạnh rùng mình. Thương vừa sinh con được một tuần.
Lội bì bõm trên đường làng, nghĩ cảnh mình Thương tủi thân muốn quay về nhưng về thì lấy gạo đâu cho những ngày mưa lụt thế này, thế là Thương lội bừa tới. Vừa thấy bóng Thương, cha đã vội nói vọng ra:
- Để cha đi xay lúa rồi nói chị dâu con gánh tới nhà. Con đừng lo, cứ ăn no có sữa cho em bú. Đừng ngâm nước bạc đau xương cốt. Con về nhanh đi kẻo nước lên.
Thương không dám nhìn vào mắt cha, lội về, đầu cúi thấp vì sợ hàng xóm gặp sẽ quở sao lại đi lội nước bạc. Tối ấy may mắn cả Thương và đứa con mới sinh đều không bị gì.
Hết lụt thì anh Rạng về, Thương nói anh xin ông nội đặt tên cho cháu, anh Rạng nói: “Bây đẻ con gái thì tự đặt tên đi”. Thương ôm chặt con trong lòng, không trách cứ. Lần đầu tiên Thương buồn mà lòng lại nhẹ nhõm, Thương được đặt tên cho con, Thương nói thầm: “Mẹ đặt tên con là Minh Anh, cũng sáng cả mà, giống tên ông nội và cha con, rồi con sẽ vui vẻ, xinh đẹp, học giỏi con nghe”.
Ngày anh Rạng đi làm lại, cha chồng Thương đứng trên sân tiễn con trai:
- Mi đi làm tau cho lấy thêm vợ kiếm thêm con trai.
Anh Rạng chào cha rồi đi, Thương nằm ôm con trong buồng nghe lòng tê tái. Ăn hết phuy lúa của ông ngoại cho thì cũng vừa kịp vụ mùa mới. Thương gửi con rồi bắt đầu đi ra đồng.
Cánh đồng làng Thương là đất pha cát. Mảnh đất trồng rau khoai lang vụ rồi còn sót lại vài dây khoai nay đang nảy những chiếc lá xanh non. Ruộng lúa nơi mà Thương cùng mạ chồng cấy, gặt, cắt, hái nay lơ thơ vài mầm cỏ dại. Hôm Thương chuẩn bị ra đồng, cha chồng đứng ở hiên nhà nói rành rẽ:
- Chỗ ruộng đó, tau cho mi làm chia phần. Nếu không làm, tau cho người khác.
Thương đưa mắt nhìn hàng tre bao quanh nhà, sau hàng tre ấy là cánh đồng đang chờ đợi Thương, bầu trời xanh mênh mông trên cao kia mở ra cho Thương nhiều hy vọng. Phải rồi, Thương không sợ khổ, Thương sẽ trồng lúa thật tốt, sẽ nuôi con thật khỏe mạnh. Thương nói với cha chồng như nói với chính mình:
- Dạ, cha để cho con làm nuôi cháu.
5.
Trời chưa tỏ mặt người, chợ ớt làng Cát đã lao xao tiếng mua bán. Người ta chở ớt trên xe đạp, gánh ớt bằng thúng, đẩy ớt trên xe bò đến chợ. Cây ớt trồng ở mấy làng ven biển này, lạ là, nắng hạn khô rang đất cát mà trái lại to, cũng không cay nồng gắt gỏng mà lại thơm một vị rất riêng. Chợ không có tên, nhóm từ khi chưa tỏ mặt người đến chừng trời sáng là tan. Người trong làng và các làng bên đến mua ớt làng Cát về làm món nước ớt rồi chở đi bán ở các chợ. Hôm ni chuyện giá ớt không rôm rả bằng chuyện tạ lăng:
- Đi chợ cho nhanh trưa ni qua nhà mụ Thương ăn lễ tạ lăng, nghe nói làm cả con bò, dọn mời cả làng.
- Cái ông cả Sáng thiệt có phước. Lúc sống ông khắc nghiệt với vợ con, chết được con dâu xây mồ to, mả đẹp.
- Nghe kể hồi mụ Thương sinh đứa con thứ ba, ông cả Sáng còn cho anh Rạng đi lấy vợ hầu nữa đó, ông nói thẳng trước mặt mụ Thương. Ông con trai được đà, đi quanh năm suốt tháng không về, có con riêng luôn, không cần biết vợ con ở nhà cực khổ thế nào.
- Không về sao mụ Thương có đến mười một đứa con.
- Thì về đạp mái xong là đi.
Cả chợ cười rần rần.
- Mười đứa thôi, một đứa là con của mụ vợ hầu, mụ Thương nhận về nuôi. Tháng trước mụ làm đám cưới cho thằng con mụ vợ hầu cũng nhẫn vàng, vòng vàng, cau trầu đầy đủ, đàng hoàng lắm.
Gà vừa gáy sáng là mụ Thương thức dậy, coi đi ngó lại các lễ vật cúng tạ lăng bày đầy căn nhà trên, nơi bây giờ trở thành nhà thờ. Cúng tạ lăng thì có cau, trầu, rượu trắng, giấy tiền, vàng bạc, quan trọng là bộ đồ giấy cúng Thổ thần đất đai, hoa quả, bánh trái, xôi, gà. Mụ Thương thắp nhang, cả đời mụ im lặng làm, hôm nay mụ cũng không biết khấn gì, mụ chỉ biết rằng những ngày qua lòng mụ rất an khi lo xong việc mồ mả cho ông bà, bà con trong làng nhìn mụ với ánh mắt nể phục. Hôm nay mụ làm lễ tạ năm cái lăng, lăng ông bà nội chồng, lăng cha mạ chồng và lăng của chồng mụ, ông cả Rạng.
Lo xong việc mồ mả mụ Thương bỗng thấy mình già đi. Trước ngày cúng lễ tạ lăng, theo thói quen, nhà có việc gì lớn là mụ đi ra nghĩa địa đến ngồi bên mộ mạ chồng, kể lể chuyện nhà. Mụ vốc từng nắm cát trong lòng bàn tay rồi xòe rộng cho cát chảy dài. Mặt trời xuống chầm chậm, những tia nắng chiều như dát vàng trên bãi cát trắng nhấp nhô theo gợn sóng. Cái chất đất cát làng mụ thiệt lạ, cứ nắng chiếu vào là óng ánh, lấp lánh. Có người bảo do các tinh thể muối gặp mặt trời thì lóng lánh như vậy, cũng có người nói đó là linh hồn của những người chôn ở cát kết tụ lại mà tạo ảo ảnh như thế. Chôn vào cát thì còn trong cát chứ mất đi đâu. Mụ Thương nhìn những ngôi mộ vừa mới xây xong, màu vôi còn thơm mới, thấy chỉ còn yêu thương và xót xa. Cạnh ngôi mộ ông cả Rạng còn một chỗ trống để dành cho mụ. Rồi một ngày chắc cũng gần thôi, mụ sẽ nằm xuống bên cạnh chồng. Mụ sẽ gặp lại tất cả, cả nhà sẽ cười ấm áp với nhau. Cát nóng quá mà, những gì uế tạp sẽ tiêu hết chỉ còn lại tinh thể nguyên chất, mà yêu thương cũng là một tinh thể nguyên chất của con người, đôi khi vì một điều gì đó yêu thương bị bẻ quặt thành cạu cọ, cay nghiệt, ví như trận đau quai bị của cha chồng mụ, trầm trọng đến mức trước khi mất, mạ chồng mụ dặn dò: “Đừng để cho mấy đứa con trai của con đau quai bị như ông nội tụi hắn nghe, ông đau nên chướng cả đời”; hay như hôm nghe tin ông cả Rạng ngã từ trên giàn giáo xuống, mụ chạy như bay từ ngoài ruộng về, nước mắt bao năm ngỡ đã cạn khô bỗng tuôn ra như thác lũ khi vào lúc sau cùng, thập tử nhất sinh, ông cả Rạng nhìn vào mắt mụ: “Chừ tau mới biết thương mạ mi thì phút cuối rồi”.
Phút cuối chi mô, ông về cát thì tui cũng về cát. Đời người cũng như cát thôi, rồi sẽ chảy qua kẽ tay. Mụ vốc một nắm cát, nhìn xa xăm về phía trong làng, cát cứ theo ngón tay mụ mà chảy ra ngoài, mụ nghĩ đời người dài mà cũng thiệt ngắn, sao không nói lời yêu thương nhau sớm hơn để chi cho đến hơi thở sau cùng mới nói được lời tử tế, mà suy cho cùng, còn nói được lời sám hối thì cũng nên tha thứ.
Mụ Thương nghĩ kỹ rồi, tại lễ tạ lăng này, mụ sẽ nói lời cảm ơn chân thành từ trái tim mụ. Cuộc đời mụ có vất vả, cực khổ, tủi cực nhưng mụ chưa hề oán thán, mụ vẫn thấy mình nhận được nhiều hơn là mất. Mụ biết rằng mụ sẽ không đi xa ngôi làng Cát này, rồi mụ cũng sẽ tan vào cát làng mình, làm một tinh thể lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời. Đời người, có gì to tát đâu, mụ chỉ mong được là hạt cát làng mình, hạt cát chứa tinh thể yêu thương.
Tháng 8/2025
N.K.D.H
(TCSH440/10-2025)