Giá sách Sông Hương
Thơ Tân Hình Thức
Thơ dịch
09:04 | 03/11/2017

(Đọc như Tân hình thức Việt)

Thơ không thể dịch vì không thể dịch âm thanh và nhạc tính ngôn ngữ, trừ khi thay đổi cách làm thơ như thơ Tân hình thức (THT) Việt.

Thơ dịch
Ảnh: thotanhinhthuc.org

Từ Đông sang Tây, ai cũng biết như vậy. Đã có bao nhiêu bài thơ Đường luật dịch ra tiếng Việt, đạt như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu do Tản Đà dịch? Có bài thơ tiếng Anh, tiếng Pháp nào dịch ra tiếng Việt đúng theo tiêu chuẩn thơ Việt như Hoàng Hạc Lâu? Chắc là không. Vì vậy mà người đọc Việt bình thường, từ trước tới nay, ít ai đọc thơ dịch, vì khô khan và không thấy gì lôi cuốn. Đó là lý do, qua phương tiện dịch thuật, mục đích của chúng tôi là đi tìm một tiêu chuẩn chuyển dịch để dịch một số bài thơ tiếng Anh, cả thể luật lẫn tự do, thành thơ THT Việt, cho người Việt đọc. Trong hàng trăm bài thơ song ngữ Anh Việt, trên website www. thotanhinhthuc.org, chúng tôi cũng chỉ chọn được khoảng hơn 10/100 (cho đến nay chừng 30 bài), là những bài dịch, đọc theo tiêu chuẩn thơ THT Việt. Nói là tiêu chuẩn thơ THT Việt, vì hiện nay loại thơ này có hàng ngàn người đọc, và trên tờ Poetry Journal In Print và những tuyển tập thơ song ngữ Việt-Anh, qua phản hồi, đang được chú ý của cộng đồng thơ Mỹ, với những bài thơ có ý tưởng liền lạc, dễ hiểu, và mới lạ đối với họ. Đó cũng là tiêu chuẩn chuyển dịch, để lọc một số bài thơ tiếng Anh, khi dịch ra, có thể đọc tương đương như đọc một bài thơ THT Việt - dịch thành thơ, góp phần thay đổi định kiến từ trước tới nay, dịch là diệt. Dịch, như vậy, cũng nằm trong tiến trình của sáng tạo.

Điều ngạc nhiên, trong 10 bài thơ tiếng Anh được chuyển dịch dưới đây có cả thơ thể luật và thơ tự do. Thơ thể luật tiếng Anh theo luật tắc của dòng thơ. Luật tắc thông dụng nhất là dòng thơ 10 âm tiết (mỗi âm tiết tương đương với một chữ trong tiếng Việt), iambic parameter (không nhấn, nhấn, lập lại 5 lần như vậy thành 10 âm tiết). Những nhà thơ thể luật gồm: Dana Gioia, Frederick Feirstein, Sydney Lea. Số còn lại là những nhà thơ tự do: William Carlos Williams, Frank O’ Hara, Tom Riordan, Phillip A. Ellis.
Đối với thơ thể luật tiếng Anh, dòng 10 âm tiết, chúng ta dùng thể thơ 8 chữ để dịch. Còn những bài thơ của những nhà thơ tự do, chúng ta thấy có dáng dấp của những thể thơ THT Việt.

Nhưng thật ra, đó là thơ do những nhà thơ tự do sáng tác. Họ tạo ra hình thức thơ giống như những thể thơ nhưng không theo luật tắc như thơ thể luật. Số âm tiết mỗi dòng thơ không đồng đều, từ 5 tới 7 âm tiết. Sự tương đồng giữa những bài thơ thể luật và tự do nguyên tác tiếng Anh là cách diễn đạt với những ý tưởng và cảm xúc liền lạc. Điều ngẫu nhiên, cách diễn đạt này cũng trùng hợp với thơ THT Việt. Mỗi ngôn ngữ, đơn âm hoặc đa âm, có văn phạm khác nhau, luật tắc và cách làm thơ khác nhau, vì vậy khi dịch thơ, tự do hay thể luật không phải là mối bận tâm của người dịch. Vấn đề quan trọng là tìm trong bài thơ nguyên tác có yếu tố chung nào với thơ Việt hay không, ở đây là cách diễn đạt. Đối với tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm, có rất nhiều chữ đơn hoặc chữ kép (bằng trắc) được lặp lại một cách tự nhiên, tạo thành nhịp điệu, nếu cách diễn đạt có những ý tưởng và cảm xúc liên tục. Đó là lý do tại sao những bài thơ dịch khi dùng những thể thơ THT Việt lại có thể đọc như một bài thơ sáng tác. Thơ THT Việt chủ trương nối kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nền văn hóa này và nền văn hóa khác, quan trọng hơn giữa bán cầu não trái và phải trong sáng tác. Đó là chủ trương không hề có trong thơ THT Mỹ. Nhưng không ngờ, trong thơ dịch, THT Việt cũng có khả năng nối kết cả hai thể loại thể luật và tự do của thơ tiếng Anh.

Nhưng loại thơ này trong thơ Mỹ không phải dễ làm. Từ những nhà thơ đã quá cố như Williams Carlos Williams, Frank O’ Hara cho đến những nhà thơ đương thời như Tom Riordan, Phillip A. Ellis lâu lâu mới có một bài, còn đa phần là những bài thơ tự do thông thường. Vì thế, tuy không được coi là cách làm thơ chính thức, nhưng đang được phổ biến. Điều ghi nhận, một số nhà thơ trẻ hiện nay, cũng có khuynh hướng làm loại thơ dòng ngắn này nhưng bằng luật tắc thơ thể luật chứ không phải thơ tự do.

Trở lại thơ THT Việt, với những khám phá về não bộ, những sáng tác trước đây cần có sự chuyển hướng mới. Sáng tạo đòi hỏi sự kết hợp cả hai bán cầu não phải và trái. Thơ không thể chỉ sáng tác với một bán cầu não phải hay trái. Dù thơ THT Việt chủ trương phối hợp giữa thơ truyền thống (bán cầu não phải) và thơ hiện đại (bán cầu não trái), nhưng thực tế những bài thơ vẫn thiếu sức tưởng tượng, cảm xúc và nhịp điệu, đồng thời nội dung chưa thoát khỏi nội dung của những dòng thơ cũ. Thơ THT Việt chắc chắn sẽ còn thay đổi nhiều, khi những nhà thơ tài năng thuộc thế hệ sau, có khả năng tổng hợp giữa cách làm thơ THT và những chức năng sáng tạo trong não bộ.
                                   Khế Iêm giới thiệu và dịch



DANA GIOIA

Pity the beautiful

Pity the beautiful,
the dolls, and the dishes,
the babes with big daddies
granting their wishes.

Pity the pretty boys,
the hunks, and Apollos,
the golden lads whom
success always follows.


The hotties, the knock-outs,
the tens out of ten,
the drop-dead gorgeous,
the great leading men.


Pity the faded,
the bloated, the blowsy,
the paunchy Adonis
whose luck’s gone lousy.


Pity the gods,
no longer divine.
Pity the night
the stars lose their shine.



Tội nghiệp người đẹp

Tội nghiệp người đẹp, những người đàn
bà hấp dẫn, những người đàn bà
thon gọn, những người đàn bà trẻ
với những nhân tình ra vẻ, đang


Ban phát cho họ những ước muốn.
Tội nghiệp những chàng đẹp trai, những
chàng trai lực lưỡng, và những chàng
trai nam tính, những chàng trai vàng


Mà sự thành công luôn luôn bám theo.
Những người lôi cuốn sự thèm muốn,
những người cám dỗ không cưỡng được,
những người ở hạng thóp, những người


Ngọai hạng, những người đàn ông hàng
đầu hết sẩy. Tội nghiệp kẻ tàn
lụi, kẻ béo phị, kẻ nhếch nhác,
chàng đẹp trai nay đã bụng phệ

Sự may mắn đến nước tồi tệ.
Tội nghiệp những vị thánh không còn
thiêng, tội nghiệp đêm, những vì
sao đánh mất sự chói sáng.

----------------------

Ghi chú: Apollos và Adonis là những vị thần thời cổ đại La Hy, chỉ những chàng đẹp trai. Nguyên tác thì kiệm lời, nhưng bản dịch thì nhiều lời để làm rõ ý, một phần vì bài thơ dùng nhiều tiếng lóng.


Film noir

It’s a farm town in the August heat
With a couple of bars along Main Street.
A jukebox moans from an open door
Where a bored waiter sweeps the floor.


A bus pulls up by Imperial Fruit.
A guy gets off a new prison suit.
He’s not bad looking. Medium height
Full of ambition. Not too bright.


He’s a low life. He’s one of the lost
Who’s burnt every bridge he’s ever crossed.
Just out of slammer, a ticking bomb,
The Wrath of God and Kingdom Come.


It’s the long odds on a roll of the dice
For big stakes you can’t bet twice.
The cards get dealt. The wheel spins.
At the end of the night the house always wins.


He sees her alone at the end of the bar,
Smoking and hot like a fallen star.
She’s a cold beauty with a knowing wink.
If she shot you dead, she’d finish your drink.


Some guys learn from their mistakes,
But all he learned is to raise the stakes.
There’s something he forgot in jail -
That the female’s deadlier than the male.


It’s tough love from a hard blue flame,
And you can’t beat a pro at her own game.
It’s a long con. It’s the old switcheroo.
You think you’re a player, but the mark is you.


She’s married but lonely. She wishes she could.
Watch your hands! Oh, that fells good.
She whispers how much she needs a man.
If only he’s help her. She has a plan.


Their eyes meet, and he can tell
It’s gonna be fun, but it won’t end well.
He hears her plot with growing unease.
She strokes his cheek, and he agrees.


It’s a straight shot. It’s an easy kill.
If he doesn’t help her, some other guy will.
It’s a sleek piece with only one slug.
Spin the chambers and give it a tug.


The heat of her lips, the silk of her skin.
His body ignites. He pushes in.
They lie in the dark under the fan -
A sex-drunk chump, a girl with a plan.



Phim đen

Đó là trang trại trong một thị trấn
Nhỏ dưới cái nóng tháng Tám với đôi
Quán rượu dọc theo đường Cái.
Một cái
Máy hát rên rỉ phát ra từ cánh cửa mở


Nơi người bồi bàn uể oải quét dọn.
Chuyến xe buýt dừng lại ở cửa hàng
Trái cây Imperial Fruit. Một gã thanh niên
Mặc bộ áo tù bước xuống. Hắn nhìn


Không tệ. Cao trung bình. Đầy ước vọng.
Không quá thông minh. Hắn là kẻ xấu.
Một trong những kẻ lầm lạc hết thuốc
Chữa. Vừa mới từ nhà tù ra. Như


Một trái bom sắp nổ, Sự Giận Dữ
Của Chúa và Thế Giới Bên Kia. Điều
Chắc chắn không phải là trò may rủi
Vì bàn thắng lớn không thể cược hai


Lần. Khi những lá bài được chia. Bánh
Xe quay. Qua đêm thì nhà cái luôn
Luôn vơ cả. Hắn thấy ả một mình
Cuối quán rượu, hút thuốc và nóng bỏng


Như một ngôi sao hết thời. Ả có
Sắc đẹp lạnh người với cái nháy mắt
Như biết ý. Nếu ả bắn ai, ả
Sẽ nốc hết ly rượu còn lại của


Người đó. Vài kẻ học được từ những
Lầm lỗi, nhưng tất cả hắn học được
Là dám liều. Có điều hắn đã quên
Lúc trong tù - là đàn bà độc ác


Hơn đàn ông. Đó là thứ tình yêu
Khó nuốt phải trả giá, và bạn không
Thể đánh bại một ả sừng sỏ với
Trò chơi do chính ả bày ra. Đó


Là trò lừa đã lâu. Cuộc trao đổi
Bất ngờ cũ kỹ. Bạn nghĩ bạn là
Kẻ chơi, nhưng bạn là mục tiêu của
Trò dối lừa. Ả có chồng nhưng lẻ


Loi. Ả ao ước được vậy. Hãy nhìn
Bàn tay bạn! Ôi cảm thấy vui sướng.
Ả thì thầm, ả cần một người đàn
Ông biết bao. Nếu chỉ hắn là người


Giúp ả. Ả có một kế. Đôi mắt
Họ gặp nhau và hắn có thể biết
Đó sẽ là niềm vui, nhưng không thể
Kết thúc hay. Hắn nghe âm mưu của


Ả với mỗi e ngại. Ả vuốt má
Hắn và hắn đồng ý. Đó là cú
Bắn thẳng. Cách giết người dễ dàng.
Nếu
Hắn không giúp ả thì đã có kẻ


Khác. Đó là kế hoạch lẻ chỉ cần
Một viên đạn. Quay ổ đạn và siết
Cò. Đôi môi ả nóng bỏng, làn da
Ả mịn màng. Cơ thể hắn bắt lửa.


Hắn đẩy vào. Chúng nằm trong bóng tối
Dưới cánh quạt - một tên ngốc khát dục,
Đứa con gái với một mưu toan.


----------------------
Chú thích: Phim đen là thuật ngữ chỉ phong cách loại phim cổ điển đen trắng với những cốt truyện đầy kịch tính và tội ác của Hollywood vào thời kỳ đầu thập niên 1940 tới cuối thập niên 1950, nhấn mạnh vào thái độ thờ ơ ích kỷ và động lực tình dục. Bài thơ nói về một tù nhân mới được thả, bị dồn nén tính dục, và một người đàn bà đã lợi dụng, dùng sự trao đổi xác thịt để anh ta giết người chồng của mình. Kết cuộc là anh ta lại tiếp tục ngồi tù.

Tiểu sử: Dana Gioia là một tác giả đa dạng, là nhà thơ, nhà phê bình, nhà giảng dạy. Ông sinh năm 1950, đã xuất bản hai tập thơ Daily Horoscope và The Gods of Winter. Ông cũng đã xuất bản tập tiểu luận nổi tiếng, Can Poetry Matter? (tiểu luận Can Poetry Matter đã được dịch và đăng trên Tạp chí Thơ số 20, mùa Xuân 2001). Tập thơ dịch Motteti: Poem of Love của Eugenio Montale. Cùng với William Jay Smith biên tập Poems from Italy, và với Michael Palma, New Italian Poets. Ông biên tập cuốn The Ceremony and Other Stories của Weldon Kees. Tác phẩm mới nhất của ông, 99 Poems: New & Selected, xuất bản năm 2016. Tác phẩm của ông xuất hiện trên The New Yorker, The Hudson Review, và nhiều tạp chí khác.

Ông soạn nhiều tuyển tập như Twentieth-Century American  Poetry (Thơ Mỹ thế kỷ 20), 100 Great Poets of the English Language (100 nhà thơ nổi tiếng ngôn ngữ Anh), The Longman Anthology of Short Fiction, Literature: An Introduction to Fiction, Poetry, Drama, and Writing (Sách văn học soạn cùng với W. J. Kennedy, 2000 trang, tái bản lần thứ 7 vào năm 1999).

Ông được tổng thống George Bush bổ nhiệm là chủ tịch Quĩ Ủy ban Yểm trợ Nghệ thuật, NEA (National Endowment for the Arts), với sự chuẩn thuận của Thương viện, nhiệm kỳ 2005 - 2009. Ông cũng được thống đốc Edmund G. Brown bổ nhiệm là Nhà thơ Danh dự Tiểu bang California (Poet Laureate of California), với sự chuẩn thuận của thượng viện tiểu bang, nhiệm kỳ 2015 - 2017. Ông hiện giảng dạy về thơ và văn học đại chúng (Poetry and Public Culture) tại University of Southern California, Los Angeles. Xin đọc thêm trên website của ông www.danagioia.com

Ông cũng cộng tác với Báo Giấy, Poetry Journal In Print, cùng với các nhà thơ Frederick Turner, Frederick Feirstein, William B Noseworthy, Alexander Kotowske, Angela Saunders tham gia cuộc hội thảo “Thơ THT Việt: Tiếp Nhận và Sáng Tạo”, do Sông Hương tổ chức năm 2014, tại Huế. Những tiểu luận và thơ dịch của ông xuất hiện trên Tạp chí Thơ, Báo Giấy, Sông Hương, Poetry Journal In Print, các website www.thotanhinhthucviet.vn, www.thotanhinhthuc.org, www.vanviet. info… với các dịch giả như Điểm Thọ, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phạm Kiều Tùng… Ông cũng là người tổ chức buổi đọc thơ song ngữ Anh Việt, tại quận Cam, California ngày 20 tháng 11, 2016, trong chương trình đọc thơ khắp 58 quận thuộc tiểu bang California của nhà thơ danh dự tiểu bang, với sự tham gia của Khế Iêm và nhà nghiên cứu âm nhạc trẻ Tina Huỳnh.




WILLIAMS CARLOS WILLIAMS

Peasant wedding

Pour the wine bridegroom
where before you the
bride is enthroned her hair


loose at her temples a head
of ripe wheat is on
the wall beside her the


guests seated at long tables
the bagpipers are ready
there is a hound under


the table the bearded Mayor
is present women in their
starched headgear are


gabbing all but the bride
hands folded in her
lap is awkwardly silent simple


dishes are being served
clabber and what not
from a trestle made of an


unhinged barn door by two
helpers one in a red
coat a spoon in his hatband.



Đám cưới quê

Rót rượu chú rể đâu trước mặt
anh cô dâu được đăng quang tóc
lòa xòa hai bên thái dương cái


nón gắn kết nhánh lúa mì
chín vàng treo trên tường bên cạnh
cô khách ngồi nơi những chiếc bàn


dài những người thổi kèn túi sẵn
sàng con chó dưới gầm bàn ngài
Thị trưởng có râu hiện diện những


người đàn bà mang khăn trùm đầu
hồ cứng nói lép bép trừ cô
dâu ngồi bó gối yên lặng ngượng


nghịu những dĩa thức ăn đơn giản
được phục vụ với sữa chua và
các thứ khác cùng loại từ một


dàn khung làm bằng cánh cửa nhà
kho được tháo rời bởi hai người
phụ việc một mặc áo khoác đỏ


đội chiếc nón có giải băng trên
cắm một chiếc muỗm.


----------------------
Tiểu sử: Williams Carlos Williams (1883 - 1963), sau Ezra Pound, ông là một nhà thơ quan trọng của phong trào Hình tượng (Imagist). Nhưng quan niệm sáng tác, đơn giản, dễ hiểu và ý tưởng sâu sắc, lại hoàn toàn khác hẳn những nhà thơ như T. S. Eliot và Ezra Pound. Ảnh hưởng của ông bao trùm suốt thế kỷ 20, đặc biệt là những nhà thơ trẻ Mỹ thập niên 1950s, 1960s.





TOM RIORDAN

The car window

shattered into empty
sunflower husks
on the macadam
and inside the bar
a woman spit glass
into a tin ashtray
and told her lover
that neither of them
was ever going to
hit the other again.



Kính cửa xe

bị đập bể trông giống những
vỏ rỗng hạt của hoa hướng
dương trên đường trải nhựa và
bên trong quán rượu một người
đàn bà nhổ chiếc răng gẫy
vào cái gạt tàn bằng thiếc
và bảo người bồ rằng không
một ai trong bọn chúng vào
bất cứ lúc nào được đi
đánh kẻ khác lần nữa.


----------------------
* glass: ám chỉ chiếc răng gẫy. “spit glass”, idiom, diễn tả sự tức giận.



Image the scavenger’s ecstasy

as he lowers himself into the bin
and opens up the first big bag -
this, after a week of mostly slugs
and chewing over last year’s pretty
much worked-over hickory nuts.

Each night he tries the Italian deli’s
door and tonight it was unlocked -
each night he propositions every
girl in the shot-&-beer joint and
tonight every one of them said yes.

He doesn’t need an eternity of bliss.
One single glorious night like this,
and then each night recalling it,
and hoping that it happens again,
is paradise enough for a raccoon.



Tưởng tượng sự ngây ngất của kẻ viết văn dâm ô

Như hắn tự thả mình trong thùng rác
Và mở cái bao lớn đầu tiên - điều
này, sau một tuần ăn hầu hết những
con ốc sên và nhai hết những hạt
mại châu héo khô hơi nhiều năm ngoái

Mỗi đêm hắn thử một cửa hàng Ý
và đêm nay cửa hàng mở cửa - mỗi
đêm hắn gạ gẫm một cô gái ở
quán rượu rẻ tiền và đêm nay mỗi
cô đều đồng ý. Hắn không cần niềm

vui sướng vĩnh cửu. Một tối lẻ loi
huy hoàng như vầy, và để rồi mỗi
đêm nhớ lại, và hy vọng trở lại
đó là vườn địa đàng đủ cho một
con gấu trúc.



Two small fans

With two small fans
our room sounds like
a 727 Whisper-Jet
and we are halfway
to the Virgin Islands
for our honeymoon.
A movie star’s boat
is anchored offshore
and his plate piled
with napoleons and
creampuffs directs
us to check out his
gut. What we adore
most are breakfast
and the newspaper
quietly delivered to
our surfside cabana
and trying to keep
up with eagle rays
in the lagoons. Oh,
we are not ready to
go home! All that
awaits us two floors
up from the bakery
is a sweltry studio
apartment whose
single saving grace
is its two small fans.



Hai quạt máy nhỏ

Với hai quạt máy nhỏ căn
phòng của chúng tôi kêu vang
như chiếc phản lực 727-
Whisper và chúng tôi đang
trên nửa đường tới Virgin
Islands hưởng tuần trăng mật.
Con tàu của một ngôi sao
điện ảnh được neo ở ngoài
bãi biển và cái đĩa đầy
bánh ngọt napoleons
và creampuffs làm chúng tôi
nhận ra cái bụng phệ của
hắn. Điều chúng tôi thích nhất
là bữa điểm tâm và tờ
nhật báo được lặng lẽ giao
tới tận lều ở bãi biển
và cố gắng theo kịp những
con cá đuối ở hồ nước
mặn. À, chúng tôi chưa sẵn
sàng về nhà. Tất cả đang
chờ đợi chúng tôi là cái
studio nóng và ẩm
trong một chung cư ở trên
lò bánh mì hai tầng lầu
mà sự đoái công chuộc tội
độc nhất của nó là hai cái
quạt máy nhỏ.


----------------------
Tiểu sử: Tom Riordan hiện cư ngụ tại tiểu bang New Jersey. Ông từng là nhà biên tập (editor) một website về thơ nổi tiếng www.poetrycircle.com. Ông cộng tác với webtesite thotanhinhthuc.org, mục “Tiếng Thơ Khác” (Other Poetry Voices). Ông viết bài điểm sách cho tuyển tập “Thơ Kể” (Poetry Narrates), và bài giới thiệu cho tập thơ “Dấu Quê” (Traces of my Homeland). Nhiều bài thơ của ông khá gần với thơ THT Việt.




FREDERICK FEIRSTEIN

Shakespeare

If I could live a Muslim cabbie’s day
Driving in traffic, parking at noon to pray
In 96th Street’s Mosque, I’d stop to chat
With vendors hawking fruit, pashminas, books
Even about my centuries of fame;
If I could be a New York City hack
I’d give up every sonnet, every play,
Not in disgrace with men’s eyes, not in shame
For just one sandwich stuffed with sizzling fat
Plump Falstaff in a greasy apron cooks,
I’d take blank time, not scripted Fortune, back.



Shakespeare

Nếu tôi có thể sống một ngày của
Người tài xế taxi Hồi giáo lái
Trong lúc đông xe, ngừng lại buổi trưa
Cầu nguyện tại Thánh đường Hồi giáo đường
96, tán gẫu với những người bán
Trái cây, khăn trùm đầu, sách, ngay cả
Hàng thế kỷ tăm tiếng của tôi; nếu
Tôi có thể là người tài xế taxi
Ở thành phố New York, tôi sẽ từ
Bỏ mỗi bài thơ, mỗi vở kịch, không
Được trọng vọng dưới mắt mọi người, không
Xấu hổ với chỉ chiếc bánh sandwich
Nhét đầy mỡ nóng do Falstaff béo
Tròn mặc tạp dề dính dầu mỡ làm,
Tôi chọn một tương lai mở, không
Phải thứ tương lai tiền định, ngược đời.


----------------------
Ghi chú: Sir John Falstaff là nhân vật trong kịch William Shakerspeare.

Tiểu sử: Frederick Feirstein là một nhà thơ quan trọng trong phong trào Thơ THT Mỹ (New Formalism Poetry). Ông cũng là kịch tác gia (đã có cả mười hai vở được diễn ở New York), nhà viết kịch bản phim và truyền hình. Frederick Feirstein đã cho xuất bản tám tập thơ. Ông đã đoạt được những giải thưởng văn học sau đây: Giải thưởng Thơ của Guggenheim Fellowship, Giải thưởng Thơ của Society of America’s John Masefield, Giải thưởng Thơ của England’s Arvon, và Giải dành cho Kịch nghệ của Rockefeller Foundation’s OADR.

Ông là người đồng sáng lập phong trào Expansive Poetry và là người tạo ra chương trình đọc sách của nhà Barnes & Noble. Tiểu sử của ông được ghi trong Dictionary of Literary Biography và tiểu sử tự thuật của ông được ghi trong Contemporary Authors Autobiography Series.

Ông cộng tác với webtesite thotanhinhthuc.org, mục “Tiếng Thơ Khác” (Other Poetry Voices). Ông viết bài giới thiệu cho tập “Thơ Khác” (Other Poetry). Ông cũng cộng tác với Báo Giấy, Poetry Journal In Print, cùng với các nhà thơ Frederick Turner, Dana Gioia, William B Noseworthy, Alexander Kotowske, Angela Saunders tham gia cuộc hội thảo “Thơ THT Việt: Tiếp Nhận và Sáng Tạo”, do Sông Hương tổ chức năm 2014, tại Huế. Những tiểu luận và thơ dịch của ông xuất hiện trên Tạp chí Thơ, Báo Giấy, Sông Hương, Poetry Journal In Print, các website www.thotanhinhthucviet.vn,  www. thotanhinhthuc.org.




PHILLIP A. ELLIS

Dead, white wood

Out of the futile grasp
of ghost-white ghost gums,
a cold moon rising,
coloured the hue
of cold smoke furling in flat,
florescent shapes
that were formed beneath
an overarching lamp
falling asleep in the declining
hours of sinking mercury,
and sleepiness settling
like emptied dreams
lazily turbulent
as from cigarettes,
ash-grey as moons
in ghost gums’ ringbarked grasps,
I dream of the trees
marching towards me,
an orchard of dead, white
wood.



Kẻ chết, rừng trắng

Thoát ra khỏi sự nắm bắt
vô vọng của những cây bạch
đàn ma - ma trắng một mặt
trăng lạnh nhô lên tô điểm
sắc thái một làn khói lạnh
gợn theo bề mặt tạo thành
những hình dạng huỳnh quang bên
dưới ngọn đèn trăng bao quát
như ai đó thiếp ngủ lúc
nửa đêm về sáng khi hàn
thử biểu xuống thấp thấm lạnh
và sự ngái ngủ làm thư
dãn như những giấc mơ trống
rỗng lộn xộn một cách uể
oải được nhả từ khói của
những điếu thuốc lá đầu ngày
và màu xám tro không khác
gì những mặt trăng phản ánh
từ những khoanh nhẫn của vỏ
những cây bạch đàn ma, tôi
mơ những cây bạch đàn ấy
bước đều về phía tôi, vườn
cây của kẻ chết, rừng trắng.


----------------------
* ghost gums: một loài cây có vỏ trắng. Ringbarked: vòng vỏ cây bị gỡ bỏ, nguyên nhân làm cho cây chết; bị coi là bất hợp pháp ở Úc.

Tiểu sử: Phillip A. Ellis, nhà thơ Úc, sinh năm 1968, một học giả và nhà phê bình. Tuyển tập thơ, The Flayed Man, đã được xuất bản bởi Gothic Press (http:// www.gothicpress.com) và đang hoàn tất một tuyển tập khác cho nhà xuất bản Diminuendo Press. Nhà xuất bản Hippocampus. Ông cộng tác với website thotanhinhthuc.org, mục “Tiếng Thơ Khác” (Other Poetry Voices).





FRANK O’ HARA

Morning

I’ve got to tell you
how I love you always
I think of it on grey
mornings with death


in my mouth the tea
is never hot enough
then and the cigarette
dry the maroon robe


chills me I need you
and look out the window
at the noiseless snow


At night on the dock
the buses glow like
clouds and I am lonely
thinking of flutes


I miss you always
when I go to the beach
the sand is wet with
tears that seem mine


although I never weep
and hold you in my
heart with a very real
humor you’d be proud of


the parking lot is
crowded and I stand
rattling my keys the car
is empty as a bicycle


what are you doing now
where did you eat your
lunch and were there
lots of anchovies it


is difficult to think
of you without me in
the sentence you depress
me when you are alone


Last night the stars
were numerous and today
snow is their calling
card I’ll not be cordial
there is nothing that
distracts me music is
only a crossword puzzle
do you know how it is


when you are the only
passenger if there is a
place further from me
I beg you do not go



Buổi sáng

Tôi phải nói với em
làm sao tôi luôn yêu
em tôi nghĩ về điều
đó vào những buổi sáng


xám với nỗi chết trong
miệng rồi trà chưa bao
giờ đủ nóng và thuốc
lá khô chiếc áo khoác


màu hạt dẻ làm tôi
lạnh tôi cần em và
nhìn tuyết im ắng ngoài
cửa sổ trong đêm nơi


vũng tàu đậu những chiếc
xe buýt rực rỡ như
đám mây và tôi lẻ
loi nghĩ về những ống


sáo tôi luôn mất em
khi tôi ra bãi biển
cát ướt với nước mắt
dường như của tôi mặc


dù tôi chưa bao giờ
khóc và giữ em trong
trái tim tôi với niềm
vui thích em có vẻ


tự hào bãi đậu đông
xe và tôi đứng lúc
lắc chùm chìa khóa chiếc
xe hơi trống trơn như


xe đạp bây giờ em
đang làm gì em ăn
trưa ở đâu và có
nhiều cá trồng không thật

khó nghĩ về em với
không có tôi trong ý
tưởng em làm tôi buồn
phiền khi em ở một


mình đêm qua những vì
sao dầy đặc và hôm
nay tuyết là danh thiếp
của chúng tôi không thân


thiết không có gì làm
tôi sao lãng âm nhạc
chỉ là trò đố chữ
em có biết thế nào


khi em là người hành
khách duy nhất nếu đó
là nơi xa hơn nơi
tôi xin em đừng đi.


----------------------
Tiểu sử: Frank O’ Hara (1926 - 1966), là nhà thơ và nhà phê bình nghệ thuật, thuộc trường phái New York. Ông chịu ảnh hưởng của nhà thơ WilliamCarlos Williams, viết bằng ngôn ngữ thường ngày. Năm 1964, ông xuất bản tập thơ “Lunch Poems” (Những Bài Thơ Trong Bữa Ăn Trưa), mỏng, với 37 bài thơ, 70 trang, nhưng là tập thơ được tái bản mỗi năm, và được những nhà phê bình coi như là tập thơ của thế kỷ 21. Thơ ông thường ghi chép những chuyện vụn vặt thường ngày.




SYDNEY LEA

The wrong way will haunt you
(Shouting a hound)

Spittle beads as ice along
her jaw on this last winter day.
And when I lift her, all her bones
are loose and light as sprigs of hay.


For years her wail has cut the woods
in parts, familiar. Host of hares
have glanced behind as she ploughed on
and pushed them to me unawares.


Now her muzzle skims the earth
as if she breathed a far dim scent,
and yet she holds her tracks to suit
my final, difficult intent.


For years with gun in hand I sensed
her circle shrinking to my point.
How odd that ever I should be
the center to that whirling hunt.


Here a yip and there a chop
meant some prime buck still blessed
with breath,
and in the silences I feared
she’d run him to her own cold death.


The snow that clouds my sights could be
a trailing snow, just wet and new
enough to keep a scent alive,
but not so deep that she’d fall through.



Tình thế không hay thường đến
(Tiếng kêu một con chó săn)

Những giải nước dãi như băng giá dọc
quai hàm con chó săn vào ngày cuối
đông. Và khi nhấc lên xương cốt nó
lỏng lẻo và nhẹ như một cọng cỏ

khô. Nhiều năm tiếng kêu quen thuộc của
nó đã cắt khu rừng thành từng phần.
Đám thỏ liếc nhìn phía sau không biết
nó đã rẽ và đẩy chúng tới tôi.


Bây giờ mõm nó là đà dưới mặt
đất như thể sự thính mũi của nó
đã lờ mờ xa, và lúc này ý
định giữ vòng săn đáp ứng mục tiêu


với nó là khó. Nhiều năm với cây
súng trong tay tôi có cảm giác nó
đã bắt đầu già. Tôi chưa bao giờ
trông chờ là trung tâm cuộc săn


cuồng quay đó. Đây là tiếng sủa và
kia là con mồi, có nghĩa là vài
con nai tơ vẫn sống, và trong yên
lặng tôi sợ việc săn đuổi đã mang


tới cái chết lạnh cho chính nó. Tuyết
phủ tầm nhìn của tôi có thể là
tuyết vẽ thành vệt, ướt và mới đủ
để giữ sự thính mũi tồn tại, nhưng


không quá sâu rằng nó đã thất bại.

----------------------
Tiểu sử: Sydney Lea (1942 -), sáng lập và cựu chủ biên tờ “The New England Review”, tác giả thơ, truyện, tiểu luận. Tuyển tập thơ của ông bao gồm Searching the Drowned Man, The Floating Candles, No Sign, Prayer for Little City và The Blainville Testament. Ông sống ở Newbury, Vermont, Hoa Kỳ.

Bài thơ trích trong tuyển tập thơ “Rebel Angels, 25 Poets of the New Formalism” (Những Thiên Thần Nổi Loạn, 25 Nhà Thơ Tân Hình Thức), do Mark Jarman và Davis Mason chủ biên, Story Line Press xuất bản, 1998.


(SHSDB26/09-2017)






 

Các bài mới
Các bài đã đăng