Giá sách Sông Hương
Biển đảo quê hương
Vị hổ tướng Nguyễn triều gióng tàu ra bể đông
09:25 | 27/09/2013

NGUYÊN TRÍ

Lê Quang Tiến (1809 - 1863) là một công thần dưới triều Nguyễn, lập nhiều công lớn gìn giữ biển đảo nước ta. Ông là võ quan trải qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình lúc bấy giờ.

Vị hổ tướng Nguyễn triều gióng tàu ra bể đông
Bá quan Văn – Võ bái lạy ở điện Cần Chánh - Ảnh: internet

Trái ngược với thái độ đầu hàng của đám quan lại chủ hòa, Lê Quang Tiến đã lãnh đạo phong trào đấu tranh chống Pháp ở mặt trận Biên Hòa. Năm 1863, ông giữ chức Thống chế nhằm truy quét giặc ở biển Quảng Yên. Nhưng chẳng may trong một trận đánh ác liệt, ông bị giặc vây hãm; quyết không đầu hàng giặc, ông đã lao xuống biển tự tiết để tỏ lòng trung thành với triều đình. Nơi ông hy sinh, nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ vị dũng tướng đã hy sinh vì đất nước. Năm nay, vừa tròn 150 năm (1863 - 2013) ngày mất của Lê Quang Tiến, để tưởng nhớ đến công lao của vị dũng tướng, chúng tôi mạn phép viết đôi dòng về thân thế và sự nghiệp của ông như một nén tâm hương hoài cổ.

1. Thân thế và nghiệp cầm quân

Lê Quang Tiến (黎光薦), hiệu Miếu Tiến vốn tên là Lê Quang Hiến (黎光憲), sau vì kỵ húy miếu hiệu của vua Thiệu Trị là Hiến Tổ Chương Hoàng đế (憲祖章 皇帝) mà cải tên. Ông quê ở xã La Chữ, tổng An Ninh, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên (nay là làng La Chữ, phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) trong một gia đình nhà Nho. Ông có thân phụ là Lê Quang Tĩnh và thân mẫu Hà Thị Tần. Sách Đại Nam liệt truyện do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, phần truyện trung nghĩa có ghi Lê Quang Tiến “là người có sức khỏe, mưu lược” và “võ nghệ thông thạo”(1). Bởi vậy, ông đã làm rạng danh dòng tộc với sự nghiệp võ quan trải qua các triều vua Nguyễn từ Minh Mạng đến Tự Đức.

Con đường binh nghiệp của Lê Quang Tiến thăng tiến dần theo sự nỗ lực của bản thân ông qua từng nhiệm vụ được giao. Gia nhập quân ngũ dưới triều Minh Mạng, đến năm 1834 ông được đề bạt chức vụ Phó đội trưởng của Đội 8 thuộc Trung vệ của Kinh binh. Năm 1847, ông được thăng hàm Thự thành thủ úy rồi thăng hàm Thành thủ úy (1850), vẫn giữ chức Hiệp quản của Hữu cơ và suất lãnh toàn bộ biền binh trong cơ thuộc tỉnh Quảng Nam. Năm 1855, ông được vua sắc phong là Phấn Dũng Tướng Quân, mang hàm tòng tam phẩm võ ban, làm Phó Vệ úy của Nhất vệ trong Tiền Bảo thuộc Tiền Quân. Cũng trong năm này ông được giao nhiệm vụ làm Phân khảo của khoa thi cử nhân võ tại trường thi Kinh đô. Do làm tốt nhiệm vụ được giao, ông được thăng chức Phó lãnh binh của tỉnh Sơn Tây.

Năm 1858, vua Tự Đức sắc phong cho ông là Anh Dũng Tướng quân, mang hàm Chánh tam phẩm võ ban, làm quan Lãnh binh các địa phương ở tỉnh Thanh Hóa.

Trong sự nghiệp cầm quân của Lê Quang Tiến, chúng tôi xin đưa ra hai sự kiện tiêu biểu thể hiện tài thao lược của một vị dũng tướng với tư tưởng vì nước vì dân:

Tư tưởng chủ chiến của Lê Quang Tiến trong trận Biên Hòa (1861 - 1862)

Tháng 4 - 1861, trước tình thế liên minh quân Pháp và Tây Ban Nha vạch ra kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa, ông xin triều đình vào phối hợp với Khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi để lo chống giữ giặc Pháp. Sử triều Nguyễn có chép sự việc này: “Cho: Vệ úy vệ Trung nhị dinh Vũ Lâm là Lê Quang Tiến thăng thự Chưởng vệ, sung Phó đề đốc thứ Biên Hòa; Bố chính Quảng Nam là Thân Văn Nhiếp đổi làm Tả thị lang bộ Binh sung chức Hiệp tán (cấp cho mỗi người 50 lạng bạc, áo trận bằng gấm mỗi người 1 chiếc, áo sa và quần mỗi người 2 cái)”(2). Trong khi Khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi chủ trương giảng hòa, không muốn đánh, mượn cớ là súng yếu, người ít, đã cử người gặp Đô đốc Charner nghị hòa. Ngược với tư tưởng chủ hòa, Phó Đề đốc Lê Quang Tiến chỉ huy quân lính và nghĩa quân địa phương tại hai làng An Thạnh và Bình Chuẩn tập kích, ngăn cản cuộc dò đường và làm cho quân Pháp phải tháo lui. Ghi nhận những đóng góp quan trọng của ông trong trận đánh này, nhà vua khen là dũng tướng, sắc phong là Hùng Uy Tướng Quân Chưởng vệ, mang hàm tòng nhị phẩm võ ban.

Ngày 14/2/1862, Biên Hòa rơi vào tay quân Pháp. Trong lúc này, phần lớn các đạo binh của nhà Nguyễn đã đầu hàng quân viễn chinh Pháp nhưng Phó Đề đốc Lê Quang Tiến vẫn tập hợp nghĩa quân trên địa bàn, giáng trả quân Pháp những đòn chí tử tại thành Bà Rịa, Phước Thọ, Long Phước, Cù Mi... Có thể nói, khởi nghĩa Lê Quang Tiến là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu dưới sự chỉ huy của tầng lớp văn thân sĩ phu có tư tưởng chủ chiến kháng Pháp ở Nam kỳ.

Khí tiết anh dũng của Lê Quang Tiến trong trận đánh giặc biển ở đảo Cát Bà (1863)

Năm Tự Đức thứ 15 (1862), ông được vua Tự Đức bạt bổ quyền Chưởng dinh Tiền phong. Sau đó ít lâu ông lại được thăng hàm Đề đốc Thanh Hóa. Năm Tự Đức thứ 16 (1863) thực dân Pháp huấn luyện, đào tạo Tạ Văn Phụng là dân theo đạo Thiên Chúa thành một kẻ gây bạo loạn ở Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh để thăm dò lực lượng quân sự ở Bắc Kỳ, quấy rối hậu phương, thu thập tin tức tình báo cung cấp cho quân Pháp, phát động dân theo đạo Thiên Chúa ở Bắc Kỳ; chờ khi quân Pháp đánh vào thì nổi dậy đánh chiếm các phủ huyện, làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đưa đường cho quân Pháp. Trước tình hình này, triều đình nhà Nguyễn đã phái Lê Quang Tiến làm Hải Yên thủ đạo Đề Đốc dẫn đạo quân đánh dẹp cuộc nổi dậy của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên. Trong thời gian này, ông được nhà vua sắc phong là Nghiêm Uy Tướng Quân Thống Chế, mang hàm chánh nhị phẩm võ ban. Phải là người rất được tin cẩn và có tài năng nên Lê Quang Tiến mới được giao phó chức vụ quan trọng và gian khó như vậy. Sách Đại Nam liệt truyện của triều Nguyễn có đoạn khen ngợi Lê Quang Tiến như sau: “Vua ban rằng Lê Quang Tiến làm được việc nên thăng sung Hải Dương quân thứ thủy đạo thống chế”(3).

Năm Tự Đức thứ 16 (1863), nhóm thổ phỉ Tạ Quang Phụng dùng 2 tàu Tây Dương, 10 tàu nước Thanh, 200 tàu của cướp biển người Việt vào sông Bạch Đằng phá đê Hà Nam, chiếm lũy để đồn trú cướp, phá Hà Nam và trấn lỵ Quảng Yên. Thủy đạo Thống chế Hải Yên Lê Quang Tiến chỉ huy quân thứ Hải Yên và nhân dân xã Phong Lưu tiến công đánh cho tan tác, phải rút chạy ra vùng biển đảo Cát Bà và núi Đồ Sơn.

Giặc biển từ khi thua trận ở Hà Nam, đem hơn 500 chiếc thuyền chia đậu ở vùng đảo Cát Bà và núi Đồ Sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh kỳ, nhưng chẳng may gặp gió bão làm thuyền đắm và tổn hao nhiều binh tướng. Đề đốc Lê Quang Tiến và Tuần phủ Bùi Huy Phan nắm được tình hình đã đem quân ra đảo Cát Bà tiêu diệt giặc, không ngờ quân giặc Tạ Văn Phụng dùng bộ binh, lính thủy vây kín bốn mặt. Vì thế cục diện trận đánh ngày càng bất lợi cho quân triều đình, lực lượng quân ta mỏng, không thể địch nổi. Thế quân yếu dần, quân lính phần bị thương, phần bị thất lạc nên suy giảm rất nhiều. Song ông quyết không lùi bước mà chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Về sau thế trận quân ta bị vỡ, ông cùng Bùi Huy Phan lao xuống biển tự tiết để tỏ lòng trung thành với triều đình. Sách Đại Nam thực lục có ghi: “Đề Đốc là Lê Quang Tiến, hộ lý Tuần phủ Bùi Huy Phan cho rằng thẳng đánh vào sào huyệt của giặc có thể thành công. Bèn chia đường mạo hiểm tiến quân. Không ngờ viên biền đạo Hậu quân là bọn Khổng Trung, Phạm Do gặp quân giặc đến đánh, chạy trước; Trung, Tiền 2 đạo bị giặc đánh ập lại, Quang Tiến, Huy Phan tự gieo mình xuống biển (phận biển Cát Bà) chết. Vua cho Quang Tiến, Huy Phan là người được việc, rất tiếc, đặc biệt gia ơn hậu cấp cho tiền tuất, mà trị tội nặng những kẻ bỏ chạy trước (Trung, Do bị tội chém)”(4).

2. Ghi nhận công trạng của Lê Quang Tiến qua một số nguồn thư tịch và sự thờ cúng

Tỏ lòng khâm phục và ghi nhớ công lao giữ gìn bờ cõi của ông với nhà Nguyễn, đầu năm 1864, theo đề nghị của Thự Hữu Tham tri Bộ Hộ Đỗ Quang, ông được vua Tự Đức sắc truy tặng hàm Tráng Vũ Tướng Quân Đô thống phủ Đô thống, mang hàm tòng nhất phẩm võ ban và ban cho tên thụy là Vũ Khác. Quốc sử triều Nguyễn ghi rõ: “Tháng 9 năm ngoái, trận đánh ở Cát Bà, Lê Quang Tiến, Bùi Huy Phan cấp cầu công trạng, liều xông vào nơi hiểm trở, không lo tính đến nỗi bị thua, cùng với Lê Nghị tự gieo mình xuống biển chết. Đã cấp tiền tuất, còn xác chết tìm khắp nơi không thấy, tình cũng khá thương, xin truy tặng cho hả linh hồn trung nghĩa. Chuẩn cho đều truy tặng một trật”(5). Đến năm Tự Đức thứ 33 (1880), triều đình đã đem linh vị của ông vào phối tự tại đền Trung Nghĩa thuộc Kinh đô Huế, bên cạnh các danh thần nhà Nguyễn như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Quốc Dụng… Sách Đại Nam liệt truyện chép: “Năm thứ 33 (1880) được liệt vào hàng trung nghĩa từ”(6). Tất cả chi tiết này đều được khắc vào Thần chủ ngài Lê Quang Tiến, đặt tại bàn hương án ở nhà thờ chi họ Lê Quang ở làng La Chữ.

Hiện nay tại nhà thờ chi họ Lê Quang do ông Lê Quang Trai là hậu duệ đời thứ 5 lĩnh nhiệm vụ thờ tự ở làng La Chữ thuộc phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế còn lưu giữ 22 sắc phong và sắc chỉ của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức gia phong cho Lê Quang Tiến chức tước và phẩm hàm về công lao diệt giặc biển, thành tích trong quân đội cũng như vai trò ổn định tình hình xã hội những nơi ông được phân công trấn nhậm. Thân phụ ông là Lê Quang Tĩnh và thân mẫu Hà Thị Tần cũng được nhà vua ban tặng hai đạo sắc phong. Ngoài ra, con ông là Lê Quang Hậu và cháu đích tôn là Lê Quang Phong cũng được vua ban tặng sắc phong. Đây là một tài liệu vô cùng giá trị và cũng niềm tự hào cho gia đình, dòng họ và quê hương.

Dưới đây là nội dung sắc phong của vua Tự Đức ban tặng sau khi ông mất:

Sắc phong của vua Tự Đức ban tặng cho ngài Lê Quang Tiến

Nguyên văn:

承天興運皇帝制曰朕惟以身許國臣子切心錫爵酬勲邦家常典緬懷烈節載霈殊霑咨
爾原充管督水道故黎光薦從事戎軒談兵虎帳翼熊桓于西塞氣銳稱干駕鷁鲸于東藩心
雄擊揖此囬東海吼波未帖艦鯢一陣葛婆破浪順乘艫舳前旄鼓勇期直擣于賊巢後道失
禨忽見罹于坎窞慷慨而身安馬革從容而死薄鴻毛如此孤忠宜加顯號玆特追贈爾爲壯
武將軍都統府都統謚武恪錫之誥命於戱徽章载錫式楊潜德于水濱毅魄如存尚妖氛于
海宇昭哉靈爽式克欽承
嗣德拾柒年正月貳拾捌日

Dịch nghĩa:

Vâng mệnh Trời Hoàng Đế ban chế rằng: Trẫm nghĩ, đem thân vì nước là tâm nguyện thiết tha của bề tôi, ban tước đền công vốn phép tắc bình thường của nhà nước. Nhớ ơn sâu xa khí tiết trung liệt ơn đức thắm khắp. Nay ngươi, nguyên sung làm chỉ huy thủy đạo cố Lê Quang Tiến theo nghiệp chốn đao binh bàn quân nơi hổ trướng, đã ra sức mạnh mẽ ở ải tây hùng hổ, nhuệ khí hiên ngang, gióng tàu thủy ra đông, tâm hùng phấn chấn. Thuở ấy, biển Đông chưa yên, còn quẫy kình ngư. Một trận Cát Bà sóng dậy, thuận theo thuyền chiến đánh trống giương cờ đi trước, hẹn giờ đánh thẳng quân giặc, nào ngờ hậu đạo thất cơ nên người lâm nạn chìm đáy biển. Khẳng khái da ngựa bọc thân, thong dong chết nhẹ tựa hồng mao. Với tấm lòng trung, cần ban thêm danh hiệu vẻ vang. Nay đặc biệt truy tặng ngươi làm Tráng Vũ Tướng Quân, Đô thống phủ Đô thống, thụy là Vũ Khác, ban cho cáo mệnh. Hỡi ôi! Ghi thành tích rực rỡ, nêu cao ân đức thầm lặng nơi biển Đông, để hồn phách tĩnh yên, còn phảng phất nơi bể cả. Sáng thay hồn thiêng, hãy kính lấy vâng mệnh.

Ngày 28 tháng Giêng, năm Tự Đức năm thứ 17 (1864).


Sau khi ông hy sinh anh dũng tại biển đảo Cát Bà (nay thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng), nhân dân địa phương đã lập miếu thờ phụng, ghi nhớ công ơn “sinh vi tướng, tử vi thần” của Lê Quang Tiến. Tương truyền sau khi Lê Quang Tiến tử trận, xác của ông cùng với bốn vị tướng khác là Bùi Huy Phan, Nguyễn Đình Thông, Nguyễn Khắc Hòe, Trần Văn Nhiếp trôi vào bãi cát đã được nhân dân Cát Bà chôn cất và lập miếu thờ với tên là miếu Quan Đội từ đó. Ngôi miếu tọa lạc tại một eo biển thuộc thôn Bến, xã Trân Châu, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Để ghi nhớ công lao của các vị dũng tướng đối với đất nước nói chung và nhân dân đảo Cát Bà nói riêng, vào năm 2011, ngôi miếu này đã được tôn tạo thành ngôi đền bề thế theo kiến trúc tín ngưỡng truyền thống có mặt chính hướng ra biển. Đặc biệt, trong khuôn viên của đền vẫn còn ngôi mộ của Lê Quang Tiến và bốn vị tướng khác. Hàng năm, cứ vào ngày 3/9 Âm lịch, nhân dân xã Trân Châu lại tổ chức lễ giỗ ông hết sức trang nghiêm và long trọng theo nghi thức lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc. Hiện nay, đền Quan Đội trở thành một địa chỉ linh thiêng, một công trình kiến trúc đẹp được đông đảo nhân dân và du khách thập phương đến thăm viếng. Bên cạnh đó, theo lời truyền ngôn của dòng họ Lê Quang tại làng La Chữ - nơi ông sinh ra thì trước năm 1975, hàng năm tại đình làng La Chữ cũng có lễ tế trọng thể tưởng niệm vị dũng tướng Lê Quang Tiến - người con ưu tú của quê hương đã hy sinh anh dũng vì nước.

Lê Quang Tiến là một công thần tiết nghĩa, một danh tướng cương cường khí khái, nặng lòng vì nước vì dân. Tấm gương hy sinh vì nước của ông thật đáng cho hậu thế học tập và trân trọng.

N.T
(SH295/09-13)


.............................................
1. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1993, tr. 339.
2. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.713.
3. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 4, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 339.
4. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 820.
5. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr 833.
6. Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, Huế, 1993, tr. 339.








 

Các bài mới
Tình biển (30/09/2013)
Các bài đã đăng
Về với biển (26/09/2013)
Cô Tô không xa (18/09/2013)